Doanh nghiệp FDI có lãi chiếm tỷ lệ ít, nhiều doanh nghiệp lỗ lớn, liên tục trong nhiều năm
Ngân hàng - Tín dụng - Ngày đăng : 17:15, 11/01/2021
(BKTO) - Bộ Tài chính vừa báo cáo kết quả tổng hợp và phân tích báo cáo tài chính năm 2019 của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) gửi Thủ tướng Chính phủ.
Ảnh minh họa - Nguồn: sưu tầm
Doanh nghiệp lỗ lũy kế tăng 26%
Báo cáo này dựa trên dữ liệu của 22.603 DN FDI, chiếm 99,9% trong tổng số 22.617 DN có vốn đầu tư nước ngoài chi phối và bằng 90,2% trong tổng số 25.054 DN FDI tính đến thời điểm cuối năm 2019.
Về quy mô sản xuất kinh doanh, báo cáo cho biết, quy mô sản xuất kinh doanh của DN FDI năm 2019 tiếp tục tăng cao so với năm 2018, đạt 7.181.000 tỷ đồng, tăng hơn 720.000 tỷ đồng so với năm 2018. Tổng tài sản đạt 7.752.000 tỷ đồng, tăng hơn 981.000 tỷ đồng so với năm 2018.
Theo địa bàn đầu tư, TPHCM là địa phương có quy mô doanh thu của DN FDI lớn nhất cả nước. Tiếp theo lần lượt là Bắc Ninh, Thái Nguyên, Đồng Nai, Bình Dương và Hà Nội. TPHCM cũng là địa phương có tổng tài sản của DN FDI đứng đầu cả nước.
Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng sinh lời, báo cáo cho biết hoạt động của DN FDI ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Điện Biên, Lai Châu, Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang, Lào Cai, Sơn La, Yên Bái và một số tỉnh Tây Nguyên… suy giảm, doanh thu năm 2019 giảm tới 10% so với năm 2018.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, trong năm 2019, lợi nhuận trước thuế của 22.603 DN này đạt hơn 387.000 tỷ đồng, tăng hơn 29.000 tỷ đồng so với năm 2018; lợi nhuận sau thuế hơn 324.000 tỷ đồng, tăng hơn 19.000 tỷ đồng so với năm 2018.
Những ngành có tỷ suất lợi nhuận tốt gồm sản xuất, lắp ráp ôtô, xe máy và xe có động cơ khác; công nghiệp chế biến thực phẩm; rượu, bia, nước giải khát; dịch vụ hỗ trợ kinh doanh; phân phối, bảo dưỡng ôtô xe máy; và nhóm y tế, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ.
Tuy nhiên, cũng theo báo cáo của Bộ Tài chính, trong số 22.603 DN này, chỉ có 9.949 DN báo lãi cả năm (45%), tăng 18% so với năm 2018.
Còn lại, có tới 12.455 DN báo lỗ, chiếm tỷ lệ 55%, dù tổng doanh thu của số DN này đạt khoảng 847.000 tỷ đồng, tăng gần 12,7% so với năm 2018 và tổng tài sản giảm 0,7% so với năm 2018.
Có khoảng 3.545 DN lỗ mất vốn năm 2019, chiếm gần 15,7%, nhưng trong số này có 2.160 DN doanh thu vẫn tăng trưởng.
Một số nhóm ngành lỗ liên tiếp trong hai năm liền và lỗ năm trước nhiều hơn năm sau là sản xuất sắt thép và kim loại khác, dầu khí, xăng dầu, nhiên liệu và sản phẩm hoá dầu.
Về DN lỗ lũy kế, đến hết năm 2019 có 14.822 DN lỗ lũy kế (bằng 66% trong số 22.603 DN) với tổng con số lỗ lũy kế trên báo cáo tài chính là hơn 520.000 tỷ đồng, bằng 41% vốn đầu tư của chủ sở hữu và tăng 26% về số doanh nghiệp có lỗ lũy kế, tăng hơn 23% về số vốn lỗ so với năm 2018.
Nộp ngân sách chưa tương xứng với ưu đãi được hưởng
Bảng tổng hợp hiệu quả kinh doanh năm 2019 của DN FDI theo quốc gia, vùng lãnh thổ cho thấy nhóm DN FDI của các nhà đầu tư đến từ Châu Âu (Đan Mạch, Hà Lan, Pháp, Luxembourg) có tổng hợp khả năng sinh lời cao nhất.
Nhóm doanh nghiệp của các nước có vốn đăng ký vào Việt Nam lớn nhất gồm Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan, British Virgin Islands có khả năng sinh lời ở mức hợp lý.
Tuy nhiên, hai nhà đầu tư nằm trong top 10 đầu tư lớn vào Việt Nam là Hong Kong, Trung Quốc lại có khả năng sinh lời thấp.
Về tình hình nộp ngân sách, theo số liệu của Tổng cục Thuế, năm 2019, số thu về các sắc thuế nội địa không kể dầu thô của khu vực DN FDI là hơn 210.200 tỷ đồng, tăng khoảng 13% so với năm 2018. Tốc độ tăng số nộp ngân sách của khu vực FDI năm 2019 nhanh hơn so với hai năm trước đó.
Tại báo cáo này, Bộ Tài chính đánh giá tăng trưởng doanh thu, tài sản và vốn đầu tư của chủ sở hữu tuy thấp hơn những năm trước nhưng vẫn duy trì ở mức cao, cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của DN FDI vẫn duy trì được tăng trưởng ổn định.
DN FDI có vai trò đóng góp quan trọng hơn vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước và đóng góp ngày càng cao vào ngân sách nhà nước, thể hiện ở số nộp ngân sách và nộp thuế xuất nhập khẩu tăng đều qua các năm.
Tuy nhiên, theo Bộ Tài chính, hiệu quả sử dụng tài sản, sử dụng vốn đầu tư tại các doanh nghiệp FDI vẫn còn thấp, chưa phát huy hết tiềm lực, nộp ngân sách chưa tương xứng với ưu đãi được hưởng.
Số DN FDI có lãi chiếm tỷ lệ ít, mới đạt 45% số DN, trong khi đó, nhiều doanh nghiệp có số lỗ lớn và lỗ liên tục trong nhiều năm.
Ngoài một số dự án lớn có hiệu quả kinh tế cao, đóng góp ngân sách tốt..., nhiều dự án hiệu quả chưa cao, mức độ đóng góp ngân sách thấp.
Bên cạnh đó, hiện tượng chuyển giá, trốn thuế vẫn diễn ra ở một số doanh nghiệp FDI. Doanh nghiệp luôn báo lỗ thậm chí lỗ liên tục nhiều năm nhưng vẫn mở rộng sản xuất kinh doanh, doanh thu các năm đều tăng, gây thất thoát, thiệt hại cho ngân sách nhà nước.
Bộ Tài chính cũng cho biết, qua phân tích tình hình tài chính của một số DN lớn trong nhóm ngành "linh kiện điện tử, máy vi tính và thiết bị ngoại vi máy vi tính, thiết bị quang học", "sản xuất, phân phối, kinh doanh điện", "sản xuất sắt, thép và kim loại khác" cho thấy hiệu quả và mức độ đóng góp vào NSNN là khác nhau.
Đối với 2 DN lớn trong nhóm ngành "sản xuất sắt, thép và kim loại khác" là Công ty TNHH Gang Thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh và Công ty Cổ phần Thép Posco Yamoto Vina, mặc dù trong hai năm liền tình hình tài chính bị tác động do giá sắt, thép toàn cầu trong xu hướng giảm, tổng doanh thu của 2 DN tăng từ 77.456 tỷ đồng lên 82.741 tỷ đồng, nhưng nộp ngân sách giảm từ 101 tỷ đồng xuống 92,6 tỷ đồng.
Theo Bộ tài chính, đóng góp cho ngân sách chưa tương xứng với những ưu đãi (đất đai, thuế,...) dành cho những DN lớn này.
Theo Haiquanonline