Công nghiệp môi trường và tiết kiệm năng lượng: Mảnh đất còn nhiều khoảng trống

Đối nội - Ngày đăng : 09:15, 01/07/2017

(BKTO) - Ngày 01/8/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1292/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động phát triển ngành công nghiệp môi trường (CNMT) và tiết kiệm năng lượng (TKNL) nhằm thực hiện Chiến lược Công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030.


Theo đó, CNMT và TKNL là một trong 6 ngành công nghiệp ưu tiên phát triển nhằm đổi mới công nghệ, tăng trưởng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia. Tuy nhiên, hiện nay cả nước chỉ có hơn 1.000 DN hoạt động trong các lĩnh vực CNMT và TKNL. Vậy tại sao DN lại không có sự quan tâm đối với lĩnh vực kinh tế đang được khuyến khích phát triển này?

Đầu tư chưa tương xứngvới nhu cầu

TKNL trong sản xuất và tiêu dùng đang nhận được sự quan tâm của toàn xã hội. Nhu cầu về công nghệ và thiết bị CNMT đến năm 2020 được xác định là rất cao. Tuy nhiên, các sản phẩm thiết bị TKNL hoặc sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo chưa được phát triển nhiều. Hiện tại, mới chỉ có một số ít chủng loại thiết bị TKNL được sản xuất và sử dụng như: bóng đèn compact, đèn LED, vòng bi rãnh sâu trong động cơ điện, quạt điện, máy giặt, điều hòa không khí sử dụng biến tần, nồi cơm điện và tủ lạnh...

Thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy, tại mỗi hecta khu công nghiệp, lượng nước thải ra mỗi ngày khoảng 25-30m3 và chất thải rắn mỗi năm lên tới 200 tấn. Tính đến năm 2020, khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ các đô thị loại IV trở lên sẽ tăng tăng gấp 4 lần hiện nay, ước khoảng 59.000 tấn/ngày. Một loại chất thải rắn nguy hại khác như chất thải y tế cũng đang có tốc độ gia tăng rất nhanh, khoảng 7,6%/năm. Trong khi đó, năng lực xử lý chất thải rắn nói chung chỉ đạt khoảng 1/3 nhu cầu với 14% chất thải rắn nguy hại được xử lý. Năng lực xử lý nước thải còn yếu kém hơn nhiều bởi chỉ có 2-3% nước thải đô thị được làm sạch đạt yêu cầu. Nhiều lĩnh vực tái chế như tái chế dầu thải, nhựa phế liệu, chất thải điện, điện tử... chưa phát triển. Kết quả thu hút các nguồn vốn đầu tư vào phát triển ngành CNMT và TKNL còn thấp, chưa tương xứng với yêu cầu của xã hội.

Theo ước tính của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nhu cầu đầu tư cho bảo vệ môi trường ở 16 ngành và lĩnh vực kinh tế ở Việt Nam vào năm 2020 có thể lên tới hơn 7,6 tỷ USD. Lĩnh vực CNMT những năm gần đây cũng đã có những thay đổi quan trọng với sự tham gia của nhiều DN thuộc nhiều thành phần. Trong giai đoạn 2010-2014, tính riêng tổng giá trị ký kết ODA cho các dự án, chương trình thuộc lĩnh vực bảo vệ môi trường đã đạt khoảng 2,9 tỷ USD, trong đó viện trợ không hoàn lại là 58 triệu USD, còn lại là vốn vay ưu đãi. Các lĩnh vực cụ thể cũng đã được chỉ rõ trong Chiến lược, bao gồm việc đầu tư xây dựng các nhà máy xử lý nước thải đô thị, các nhà máy phân loại rác - sản xuất phân vi sinh - đốt rác kết hợp thu hồi nhiệt - phát điện, xử lý chất thải nguy hại, nhà máy tái chế chất thải (nhựa phế thải, dầu thải, thiết bị điện, điện tử, phương tiện vận tải hết niên hạn sử dụng).

Lĩnh vực TKNL cũng là một mảnh đất còn rất nhiều khoảng trống, bao gồm nghiên cứu, chuyển giao và hỗ trợ áp dụng các quy trình công nghệ TKNL cho các ngành sản xuất tiêu thụ nhiều năng lượng như thép, giấy, xi măng, gốm sứ. Đó cũng có thể là nghiên cứu, phát triển các sản phẩm công nghệ “xanh” như đèn chiếu sáng LED, các thiết bị điện tử, điện lạnh hiệu suất cao; giảm phát thải khí nhà kính ở các nhà máy sản xuất bia, chế biến thủy sản, tòa nhà công sở...

Gỡ nút thắtcơ chế chính sách

Mặc dù nhu cầu đầu tư cho bảo vệ môi trường đối với các ngành, lĩnh vực kinh tế là rất lớn, song theo đánh giá của nhiều chuyên gia, hệ thống cơ chế chính sách để thúc đẩy CNMT, TKNL vẫn chưa đầy đủ; Nghị định của Chính phủ về phát triển ngành CNMT và phát triển công nghiệp hỗ trợ đều chưa được ban hành. Sự liên kết trong sản xuất, cung ứng linh kiện trong lĩnh vực này cũng chưa hình thành, chưa có thị trường cho các sản phẩm hỗ trợ ngành CNMT và TKNL. Về phía DN, bên cạnh trình độ sản xuất và năng lực cạnh tranh còn nhiều hạn chế, một nguyên nhân quan trọng khiến nhiều nhà đầu tư không muốn bỏ vốn vào lĩnh vực môi trường là xã hội dường như chưa chấp nhận chi trả xứng đáng cho các dịch vụ này. Các hành vi trục lợi từ môi trường còn khá phổ biến và chưa bị xử lý nghiêm khắc.

Ông Nguyễn Văn Tài - Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường - cho biết: nhiệm vụ quan trọng tới đây chính là tăng cường công tác quản lý nhà nước về môi trường và TKNL để tạo sức ép giúp hình thành và phát triển thị trường đầu ra cho các DN trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, theo ông Đỗ Hữu Hào - Chủ tịch Hiệp hội CNMT Việt Nam, bên cạnh nhóm giải pháp này, những cơ chế hấp dẫn hơn cũng cần được Nhà nước sớm ban hành cho DN, như: các hỗ trợ trực tiếp về tài chính, đất đai hạ tầng; hỗ trợ gián tiếp về đào tạo nhân lực; tạo điều kiện cho DN tiếp cận thông tin, cơ sở dữ liệu; hỗ trợ chuyển giao công nghệ…

Hiện nay, Bộ Công Thương đang xây dựng Dự thảo Nghị định về phát triển ngành CNMT. Cụ thể, DN CNMT được hưởng mức thuế thu nhập DN 10% cho phần thu nhập từ hoạt động CNMT trong suốt thời gian hoạt động. Đối với DN CNMT mới thành lập, kể từ ngày quy định này có hiệu lực sẽ được miễn thuế thu nhập DN trong 4 năm và giảm 50% thuế thu nhập DN cho 5 năm tiếp theo. Việc xác định phần thu nhập được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập DN theo quy định hướng dẫn của Bộ Tài chính. Bên cạnh đó, máy móc, thiết bị, vật tư thuộc loại chưa sản xuất được trong nước mà tổ chức, cá nhân có dự án phát triển ngành CNMT cần nhập khẩu để sử dụng trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng với thuế suất 0%.

Thuế suất nhập khẩu các loại vật tư, linh kiện, thiết bị nhập khẩu để sản xuất, chế tạo thiết bị, sản phẩm bảo vệ môi trường và các máy móc, thiết bị bảo vệ môi trường trong nước chưa sản xuất được sẽ áp dụng mức thuế suất nhập khẩu bằng 0 hoặc mức thuế suất sàn trong các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.

Bên cạnh ưu đãi về thuế, phí, Dự thảo cũng nêu rõ dự án đầu tư phát triển ngành CNMT còn được ưu tiên vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước tối đa 70% tổng mức vốn đầu tư của dự án (không bao gồm vốn lưu động), nhưng không quá 15% vốn điều lệ thực có của Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Mức vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước do Tổng giám đốc Ngân hàng Phát triển Việt Nam quyết định. Điều kiện vay vốn, trình tự, thủ tục vay vốn, lãi suất và thời gian cho vay theo quy định về tín dụng đầu tư của Nhà nước hiện hành.

Dự án đầu tư phát triển ngành CNMT cũng được ưu tiên vay vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi nước ngoài khác từ hệ thống các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước thông qua các chương trình, dự án hạn mức tín dụng hoặc hợp phần tín dụng được tài trợ bằng nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi. Điều kiện, trình tự, thủ tục vay vốn thực hiện theo quy định về quản lý, sử dụng nguồn vốn ODA và nguồn vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ hiện hành. Dự thảo cũng nêu rõ quy định về hỗ trợ đất đai; hỗ trợ phát triển thị trường, cung cấp thông tin; hỗ trợ khoa học, kỹ thuật và chuyển giao công nghệ… nhằm phát triển ngành CNMT.

NGUYỄN LY
Theo Đặc san cuối tháng ra 25/6/2017