Triển vọng tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào tốc độ tiêm vắc-xin phòng Covid-19
Doanh nghiệp - Ngày đăng : 20:36, 22/07/2021
(BKTO) - Triển vọng kinh tế Việt Nam những tháng cuối năm phụ thuộc nhiều vào tốc độ và quy mô tiêm chủng vắc-xin phòng Covid-19; hiệu quả của các biện pháp phòng chống bệnh dịch; các gói hỗ trợ và thúc đẩy tăng trưởng ở trong nước.
Đây là nhận định của nhóm chuyên gia Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) đưa ra tại Tọa đàm “Công bố báo cáo kinh tế vĩ mô quý II/2021”, diễn ra chiều 21/7.
Tọa đàm được tổ chức theo hình thức trực tuyến. Ảnh: DIỆU THIỆN |
Nền kinh tế vẫn đối mặt với nhiều thách thức
Phân tích về tình hình kinh tế Việt Nam, PGS.TS Phạm Thế Anh - Trưởng Bộ môn Kinh tế vĩ mô, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết, kinh tế Việt Nam trong quý II/2021 tăng trưởng 6,61%, cao hơn mức tăng của quý I.
Mức tăng trưởng này dựa trên những yếu tố như: Chính phủ kiểm soát tốt dịch bệnh từ giai đoạn cuối quý I giúp duy trì hoạt động kinh tế trong nước; các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu đang mở cửa trở lại và các doanh nghiệp (DN), đặc biệt là các DN FDI, tận dụng tốt Hiệp định EVFTA để phục hồi sản xuất và xuất khẩu hàng hóa sang thị trường EU.
Bên cạnh đó, tiến độ giải ngân và thi công các dự án đầu tư công trọng điểm được đẩy nhanh hơn; môi trường vĩ mô ổn định, lạm phát kiểm soát được ở mức thấp tạo môi trường cho việc thực thi các chính sách hỗ trợ tăng trưởng…
Tuy nhiên, PGS.TS Phạm Thế Anh cho rằng, triển vọng của nền kinh tế đã xấu đi rất nhiều khi đợt dịch Covid-19 lần thứ 4 bùng phát trong giữa và cuối quý II, theo đó đã làm gián đoạn quá trình sản xuất của các DN tại các địa phương đang bùng phát dịch.
PGS.TS Phạm Thế Anh trình bày kết quả nghiên cứu của VEPR. Ảnh: DIỆU THIỆN |
Mặt khác, điểm yếu của kinh tế Việt Nam còn đến từ các rủi ro nội tại như mất cân đối tài khóa lớn; tốc độ và mức độ đầu tư phát triển, đặc biệt là hạ tầng còn chậm; sức khỏe của hệ thống ngân hàng - tài chính tuy dần được củng cố nhưng còn dễ tổn thương.
Đặc biệt là sự phụ thuộc nặng nề của tăng trưởng vào khu vực DN FDI, thiếu tự chủ về công nghệ và nguyên liệu; chất lượng lao động thấp và chậm cải thiện; tiến trình cổ phần hóa DN nhà nước còn chậm; môi trường và thể chế kinh doanh dù từng bước được cải thiện nhưng về căn bản chưa giải phóng được sức mạnh của DN...
Tăng trưởng kinh tế có thể đạt mức cao nhất là 6,1%
Dựa trên tình hình thực tiễn, VEPR đưa ra 3 kịch bản dự báo về tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2021, với giả định chung là các đối tác thương mại và đầu tư lớn của Việt Nam sẽ triển khai thành công việc tiêm vắc-xin phòng Covid-19 vào đầu quý IV/2021 và khống chế được tình trạng dịch tái bùng phát; hoạt động kinh tế trên toàn cầu được khôi phục và căng thẳng thương mại, bất ổn chính trị được làm dịu hơn. Trong khi đó, tình hình kiểm soát bệnh dịch tại Việt Nam có thể diễn biến theo các chiều hướng khác nhau.
Ở kịch bản cơ sở, dịch bệnh được kiểm soát vào cuối quý III, việc tiêm chủng được triển khai nhanh chóng và đạt miễn dịch cộng đồng vào quý II/2022, kinh tế vĩ mô duy trì ổn định. Tăng trưởng kinh tế cả năm được dự báo ở mức 4,5 - 5,1%.
Với kịch bản thuận lợi, dịch bệnh được kiểm soát ngay trong tháng 8/2021, việc tiêm vắc-xin được đẩy nhanh và đạt miễn dịch cộng đồng vào quý I/2022, kinh tế vĩ mô duy trì ổn định. Tăng trưởng kinh tế cả năm được dự báo ở mức 5,4 - 6,1%.
Còn trong kịch bản bất lợi, dịch bệnh chưa thể được kiểm soát và các hoạt động kinh tế chưa thể trở lại bình thường cho tới quý IV, quá trình tiêm chủng vắc-xin được triển khai chậm do thiếu nguồn cung; các chính sách hỗ trợ người dân, DN, quá trình tái cơ cấu, chuyển đổi số được thúc đẩy nhưng dịch vụ, thương mại và thu hút vốn FDI phục hồi chậm. Khi đó, kinh tế Việt Nam năm 2021 chỉ có thể tăng trưởng từ 3,5 - 4,0%.
Với cả 3 kịch bản này, những khuyến nghị chính sách được các chuyên gia của VEPR đưa ra là Việt Nam cần có một chiến lược tổng thể và nhất quán trong việc đối phó với các tình huống của dịch bệnh; khắc phục các bất cập liên quan đến lây nhiễm chéo trong khu cách ly, khai báo y tế, đứt gãy trong lưu thông hàng hóa do các biện pháp cực đoan; tình trạng thiếu trang thiết bị y tế cần phải được tập trung nguồn lực để giải quyết nhanh chóng.
Bên cạnh đó, Chính phủ và các Bộ, ngành nên khẩn trương triển khai và giải ngân các gói hỗ trợ đối với người lao động mất việc, đặc biệt là những lao động trong khu vực phi chính thức.
Về tài chính tiền tệ, chính sách tài khóa nên tập trung thúc đẩy giải ngân các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng lớn ở cấp quốc gia, làm nền tảng cho giai đoạn phục hồi sau đại dịch. Cùng với đó, chính sách tiền tệ thích ứng nên được thực hiện với tăng trưởng cung tiền được kiểm soát ở mức phù hợp (10%) và các biện pháp kiểm soát rủi ro ở mức vừa phải./.
DIỆU THIỆN