Đảm bảo tính độc lập của kiểm toán viên trong kiểm toán hoạt động
Hoạt động của Ngành - Ngày đăng : 15:16, 20/08/2021
(BKTO) - Hiện nay, các cơ quan kiểm toán tối cao (SAI) đều rất nỗ lực nhằm mở rộng quy mô và chất lượng các cuộc kiểm toán hoạt động (KTHĐ). Để đưa ra kiến nghị có giá trị, thúc đẩy việc sử dụng ngân sách hiệu quả, các kiểm toán viên nhà nước (KTV) cần có chuyên môn, kỹ năng phù hợp và đặc biệt cần đảm bảo tính độc lập trong quá trình kiểm toán nói chung và KTHĐ nói riêng.
Ảnh tư liệu |
Tính độc lập của kiểm toán viên trong kiểm toán hoạt động rất quan trọng
Theo Điều 6 Mục II Tuyên bố Lima (1997), tính độc lập của nhân viên phải được đảm bảo bởi Hiến pháp. Theo đó, quy trình miễn nhiệm cũng phải được quy định trong Hiến pháp và không được ảnh hưởng đến tính độc lập của nhân viên. Do vậy, khi thực hiện nghiệp vụ chuyên môn của mình, KTV phải không bị ảnh hưởng bởi đơn vị được kiểm toán và không phụ thuộc vào đơn vị đó.
Đại hội lần thứ XIX của Tổ chức quốc tế các Cơ quan Kiểm toán tối cao (INTOSAI) tại Mexico cũng đã công nhận 8 nguyên tắc cốt lõi trong Tuyên bố Mexico về tính độc lập của SAI là những yêu cầu thiết yếu để kiểm toán khu vực công. Theo đó, với KTV, tính độc lập được đảm bảo trên các khía cạnh:
Sự tồn tại của một khuôn khổ hiến pháp/luật định/pháp lý phù hợp và hiệu quả áp dụng các điều khoản của khuôn khổ này trên thực tế; quyền truy cập thông tin không hạn chế; quyền và nghĩa vụ báo cáo về công việc của họ; quyền tự do quyết định nội dung và thời gian của các báo cáo kiểm toán và công bố, phổ biến chúng; sự tồn tại của các cơ chế theo dõi hiệu quả các khuyến nghị SAI; nguồn lực tài chính đầy đủ để có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Nghiên cứu của Power đã nhấn mạnh rằng, thách thức nhất của hoạt động kiểm toán nói chung và KTHĐ nói riêng là tính độc lập của KTV với thông tin, đơn vị được kiểm toán. Để hiểu và phân tích vai trò của KTV, điều quan trọng là phải phân biệt sự khác nhau giữa độc lập về tổ chức và độc lập trong hoạt động/chức năng.
Theo đó, tính độc lập về tổ chức là cách thức mà cơ quan kiểm toán xây dựng các quy tắc đạo đức, bộ máy vận hành để đảm bảo tính khách quan cho KTV. Tuy nhiên, KTHĐ lại đưa ra các kiến nghị, tư vấn cho chính đơn vị được kiểm toán. Điều này đặt ra câu hỏi liệu việc thực hiện chức năng tư vấn này có làm ảnh hưởng đến vai trò kiểm toán hay không.
Để trả lời cầu hỏi này và cũng nhằm đảm bảo tính độc lập cho KTV, nghiên cứu của Power đã đề cập tới khía cạnh độc lập về hoạt động/chức năng, tức là quy trình và phương thức mà các SAI sẽ sử dụng trong quá trình kiểm toán, cụ thể như: độc lập trong việc lựa chọn các chủ đề kiểm toán, thời gian kiểm toán và cách thức công bố các phát hiện sau khi kiểm toán.
Thực tế, tính độc lập không thể tuyệt đối bởi cuộc kiểm toán luôn phụ thuộc vào thông tin của đơn vị được kiểm toán, các chi phối từ các cơ quan cấp trên. Tuy nhiên, vẫn có sự độc lập tương đối và yếu tố này ngày càng được chú trọng hơn, đặc biệt là trong bối cảnh đánh giá hiệu quả hoạt động của tổ chức khi thực hiện KTHĐ.
Đồng quan điểm, nghiên cứu của White & Hollingsworth cho rằng tính độc lập của KTV tạo cơ sở cho việc xem xét công bằng và khách quan các hoạt động công, không bị áp lực từ các cơ quan hành pháp, đảng phái chính trị và các nhóm tạo áp lực khác trong hệ thống chính trị...
Còn theo Berhanu Ayansa Angessa (2019), tính độc lập của Văn phòng tổng kiểm toán và KTV đóng một vai trò quan trọng trong thực hành KTHĐ để đảm bảo trách nhiệm giải trình và cải thiện hoạt động của các cơ quan chính phủ. Về nguyên tắc, hoạt động kiểm toán cần có đủ sự độc lập về tài chính so với những hoạt động mà nó bắt buộc phải kiểm toán để có thể tiến hành mà không bị can thiệp.
Như vậy, các nghiên cứu điển hình đều chỉ rõ tính độc lập của KTV trong kiểm toán rất quan trọng. Đặc biệt, với KTHĐ, các tiêu chí đánh giá của từng cuộc kiểm toán phụ thuộc nhiều vào xét đoán của KTV khi liên quan trực tiếp tới việc kiểm toán về tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực của các thông tin được kiểm toán. Điều này dễ xảy ra các nguy cơ về các xét đoán không khách quan trong đánh giá của KTV đối với đơn được kiểm toán, từ đó có thể dẫn tới một số sức ép từ các bên để che dấu hoặc thỏa hiệp về các kiến nghị, kết luận kiểm toán.
Gia tăng tính độc lập của kiểm toán viên nhà nước
Để bảo vệ tính độc lập của KTV trong quá trình thực hiện kiểm toán nói chung và KTHĐ nói riêng, các SAI cần có những biện pháp, đồng thời xây dựng các chỉ số đánh giá mức độ ảnh hưởng của tính độc lập tới hiệu quả của KTHĐ.
Theo đó, trước tiên, các SAI cần rà soát và cập nhật các thông lệ quốc tế về tính độc lập của KTNN trong Hiến pháp để đảm bảo có cơ sở pháp lý tối cao trong thực hành kiểm toán, đảm bảo tính độc lập cả về tổ chức và chức năng trong thực hành KTHĐ. Tính độc lập về tổ chức cho phép KTV tiến hành KTHĐ mà không bị đơn vị được kiểm toán can thiệp và KTV lựa chọn các đối tượng để đánh giá mà không cần sự chấp thuận của bất kỳ cơ quan bên ngoài nào (cơ quan hành pháp).
KTNN cần trang bị đầy đủ các nguồn lực về cơ sở vật chất và tài chính để KTV hoàn toàn tự tin thực hiện công việc kiểm toán của mình một cách khách quan, công tâm mà không bị chi phối về tài chính từ phía đơn vị được kiểm toán.
Bên cạnh đó, KTV nhà nước cần được trang bị đầy đủ kỹ năng, năng lực và có quyền truy cập miễn phí, không hạn chế vào tất cả các thông tin và hoạt động được yêu cầu để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Đồng thời, KTV cũng phải được quyền theo dõi tình hình trong quá trình thực hiện các kiến nghị của đơn vị được kiểm toán.
Tính độc lập của KTV là vô cùng quan trọng trong quá trình thực hiện KTHĐ trên các khía cạnh: độc lập cả về năng lực chuyên môn, tài chính, mối quan hệ thân quen. Bản thân KTV cần trao dồi kiến thức, năng lực chuyên môn để thực hiện hiệu quả KTHĐ, đưa ra đánh giá độc lập, khách quan dựa trên lập trường tư tưởng vững vàng. Các cơ quan hành pháp của các quốc gia cần có những chính sách hỗ trợ và bảo vệ tính độc lập của KTV./.
THS. TRẦN PHƯƠNG THÙY - Khoa Kế toán, Kiểm toán, Học viện Ngân hàng
Tài liệu tham khảo
1. Berhanu Ayansa Angessa (2019),Factors affecting performance audit practice: a case of office of oromia auditor genera, Addis Ababa University, Ethiopia.
2. Francis, J.R (2011), A Framework for Understanding and Researching Audit Quality Auditing, Vol 30(2), pp 125-152.
3. International Standards of Supreme Audit Institutions ISSAI 10 Mexico (2007), Declaration on SAI Independence, International Organization of Supreme Audit Institutions. www.issai.org.
4. Power, M.(1997), Expertise and the construction of relevance: accountants and environmental audit, Accounting, organizations and society, Vol 22(2), pp.123-146.
5. Power, M.(1997), The audit society: Rituals of verification, OUP Oxford.
6. Warwick Funnell (2005), "Independence and the State Auditor in Britain: Constitutional Keystone or A Case of Reified Imagery", A journal of Accounting, Finance and Business Stdudy, Vol 30(2), pp 175 – 195, The University of Sydney .
7. White, F. and Hollingsworth, K (1999), Audit, accountability and government, Oxford University Press.
8. Bộ môn kiểm toán - Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm toán hoạt động, NXB Phương Đông, 2016.