Phát triển văn hóa, du lịch để đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của đất nước

Xã hội - Ngày đăng : 14:54, 02/12/2021

(BKTO) - Văn hóa với những giá trị từ truyền thống đến hiện đại được Đảng ta xác định đóng vai trò quan trọng, là động lực để thúc đẩy phát triển đất nước bền vững. Đáng chú ý, việc phát triển lĩnh vực này còn góp phần quan trọng để tạo ra tăng trưởng kinh tế thông qua ngành “công nghiệp không khói” với loại hình du lịch văn hóa.


Tiềm năng to lớn để phát triển du lịch văn hóa

Việt Nam sở hữu một hệ thống đồ sộ các di tích lịch sử-văn hóa, danh lam thắng cảnh ở cấp độ quốc gia hoặc địa phương, trải dài khắp đất nước; cùng với hệ thống các lễ hội, làng nghề truyền thống, văn hóa ẩm thực đặc sắc của các vùng miền, các di sản văn hóa-nghệ thuật, bảo tàng... Đây là những tài nguyên du lịch hết sức giá trị, mang tính đặc trưng văn hóa đặc sắc của Việt Nam, là nguồn lực quan trọng tạo thế mạnh và sự khác biệt cho sản phẩm du lịch. Trong ba năm liên tiếp, từ năm 2019 đến 2021, Việt Nam được tổ chức Giải thưởng Du lịch thế giới (WTA) bình chọn là “Điểm đến văn hóa hàng đầu châu Á”. Điều đó cho thấy, giá trị di sản văn hóa của Việt Nam luôn có sức hấp dẫn, thu hút du khách.
                
   

Việt Nam có nền văn hóa đa dạng, giàu bản sắc và thu hút du khách. Trong ảnh, các nghệ sĩ biểu diễn dân ca truyền thống phục vụ du khách tại Văn miếu - Quốc Tử Giám. Ảnh: N.LỘC

   

Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, nhiều đại diện đến từ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã nhấn mạnh đến những hành lang pháp lý quan trọng để phát triển du lịch văn hóa. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn đã chỉ rõ, trong quá trình phát triển du lịch phải chú trọng bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa, giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cũng nhấn mạnh quan điểm “phát triển du lịch văn hóa, gắn phát triển du lịch với bảo tồn, phát huy giá trị di sản và bản sắc văn hóa dân tộc”, đồng thời “chú trọng phát triển sản phẩm du lịch văn hóa, gắn với bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa, lịch sử, truyền thống của dân tộc… góp phần tạo dựng thương hiệu nổi bật của du lịch Việt Nam”.

Nhiều chương trình như tham quan di sản văn hóa cố đô Huế, phố cổ Hội An, khu đền tháp Mỹ Sơn, danh thắng Tràng An; tham gia các lễ hội truyền thống và đương đại như: lễ hội Chùa Hương, lễ hội Yên Tử, lễ hội Bà Chúa Xứ, festival Huế… đã trở thành những sản phẩm du lịch có thương hiệu, hấp dẫn. Có thể khẳng định, sản phẩm du lịch văn hoá chính là yếu tố tạo nên nét khác biệt cho hệ thống sản phẩm du lịch Việt Nam, kết nối và đa dạng hoá các tour, tuyến du lịch.

Chỉ tính riêng năm 2018, khách du lịch tới tham quan các khu di sản ở Việt Nam đem lại nguồn thu lớn từ vé tham quan: Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) đón 4,1 triệu lượt khách, đạt doanh thu 1.184 tỷ đồng; Tràng An (Ninh Bình) đón 6,25 triệu khách, đạt doanh thu 665,8 tỷ đồng; Cố đô Huế đón 3,5 triệu khách, doanh thu 375 tỷ đồng…

Đưa du lịch văn hóa trở thành thương hiệu của du lịch Việt

Trong tham luận gửi đến Hội nghị Văn hóa toàn quốc, Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) Nguyễn Trùng Khánh cho biết, với truyền thống văn hóa phong phú và đặc sắc, giá trị di sản văn hóa của Việt Nam luôn có sức hấp dẫn qua thời gian.

Việc sở hữu nhiều lợi thế để phát triển du lịch sáng tạo dựa trên nền tảng văn hóa sẽ giúp Việt Nam đa dạng hóa hệ thống sản phẩm du lịch, gia tăng giá trị cho các sản phẩm du lịch văn hóa truyền thống, phát triển thương hiệu du lịch độc đáo, thu hút được thêm dòng khách trung cấp đến cao cấp, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của du lịch Việt Nam.

Để đạt được các mục tiêu này, ông Nguyễn Trùng Khánh cho rằng, cần có những điều chỉnh trong hoạch định chính sách và hành động. Trước tiên cần đảm bảo tính hài hòa giữa bảo tồn di sản văn hóa với phát triển du lịch; cần nhìn nhận đúng vai trò của cộng đồng đối với việc bảo tồn phát huy các giá trị di sản; vai trò và quyền lợi, trách nhiệm của cộng đồng trong phát triển du lịch.
                
   

Để phát triển du lịch văn hóa, cần tạo ra những sản phầm du lịch độc đáo. Ảnh: N.LỘC

   

Thứ hai, cần nghiên cứu kỹ, đảm bảo cơ sở phát triển bền vững trong triển khai hoạt động du lịch tại một số di tích, di sản văn hóa, đặc biệt khuyến khích phát triển các loại hình du lịch có trách nhiệm gắn với cộng đồng, tôn trọng tính đa dạng, tính chỉnh thể nguyên hợp của di sản văn hóa phi vật thể.

Thứ ba, các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương và địa phương cần triển khai điều tra, phân loại và đánh giá các tài nguyên du lịch một cách đồng bộ, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hóa.

Thứ tư, cần bảo đảm các nguyên tắc trong xây dựng sản phẩm du lịch. Sản phẩm du lịch phải mang linh hồn của văn hóa truyền thống, có nhiều yếu tố đặc sắc, đặc thù cho từng tộc người, từng vùng, miền khác nhau, qua đó nâng cao giá trị, gia tăng sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm du lịch.

Thứ năm, xây dựng cơ chế phối hợp và phân chia nguồn lợi từ du lịch di sản văn hóa. Phát triển du lịch di sản văn hóa cần có sự kết hợp của các bên liên quan, trong đó người dân là chủ thể chính, cần được khuyến khích tham gia hoạt động du lịch di sản văn hóa một cách sáng tạo. DN đóng vai trò cung cấp khách, đồng thời hỗ trợ vốn, tập huấn cho cộng đồng về cách thức tổ chức, kinh doanh hoạt động du lịch di sản văn hóa.
         
   
Trước khi đại dịch Covid-19 bùng phát, giai đoạn 2015-2019, du lịch Việt Nam đã đạt được những dấu mốc ấn tượng với mức tăng trưởng bình quân về lượt khách đạt 22,7%/năm và về doanh thu đạt 20,7%/năm; riêng năm 2019, tổng thu từ du lịch đạt 755 nghìn tỷ đồng, đóng góp 9,2% vào GDP của cả nước. Trong đó, du lịch văn hóa đã khẳng định vai trò quyết định tạo nên kết quả ấn tượng này, với các điểm đến nổi tiếng: Di sản văn hóa thế giới Cố đô Huế, phố cổ Hội An, di tích Mỹ Sơn, danh thắng Tràng An…, nhiều chương trình nghệ thuật múa rối, hát dân ca thu hút du khách.
   
N.LỘC