Truy thu thuế TTĐB năm 2013: Sabeco nghiêm túc thực hiện kiến nghị kiểm toán
Hoạt động của Ngành - Ngày đăng : 06:55, 25/08/2016
(BKTO) - 10 tháng sau khi Báo cáo kiểm toán Tổng công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) năm 2014 về niên độ tài chính 2013 được phát hành, trong đó KTNN có kiến nghị truy thu thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) năm 2013 số tiền 408,8 tỷ đồng đối với 9 đơn vị của Sabeco, tất cả các đơn vị đã nghiêm túc thực hiện nộp đủ toàn bộ số tiền KTNN kiến nghị vào NSNN.
Theo kiến nghị của KTNN, 9 đơn vị của Sabeco đã thực hiện nộp đủ vào NSNN số thuế TTĐB truy thunăm 2013 là 408,8 tỷ đồng.Ảnh : TS
Đã nộp đủ 100% thuế TTĐB
Báo cáo kiểm toán phát hành ngày 04/02/2015 của KTNN cho biết, các công ty con (đơn vị sản xuất) của Sabeco kê khai nộp thuế TTĐB đối với sản phẩm do các công ty con sản xuất, Công ty mẹ kê khai nộp thuế TTĐB đối với sản phẩm do 2 nhà máy hạch toán phụ thuộc sản xuất, giá tính thuế TTĐB là giá bán ra tại Công ty TNHH MTV Thương mại Sabeco (công ty con 100% vốn của Tổng công ty).
Theo giải thích của Tổng công ty, giá tính thuế TTĐB là giá bán ra tại Công ty TNHH MTV Thương mại Sabeco do Tổng công ty ban hành quyết định và giá bán ra tại Công ty TNHH MTV Thương mại Sabeco không thấp hơn 10% so với giá bán ra tại các Công ty cổ phần Thương mại khu vực (các công ty con do Công ty TNHH MTV Thương mại Sabeco sở hữu trên 90% vốn điều lệ).
Số liệu báo cáo của các đơn vị cho biết, tổng doanh số chưa tính thuế do chênh lệch giữa giá bán ra của các Công ty cổ phần Thương mại khu vực và giá bán ra tại Công ty TNHH MTV Thương mại Sabeco trong năm 2013 là 1.914 tỷ đồng.
Tuy nhiên, theo KTNN, Công ty TNHH MTV Thương mại Sabeco và các Công ty cổ phần Thương mại khu vực đều là những đơn vị thuộc hệ thống sản xuất kinh doanh của cơ sở sản xuất là Công ty mẹ, không phải là cơ sở thương mại độc lập và Tổng công ty là đơn vị quyết định giá bán ra tại các Công ty cổ phần Thương mại khu vực, nên giá tính thuế TTĐB phải là giá bán ra của Công ty cổ phần Thương mại khu vực, không phải là giá bán ra tại Công ty TNHH MTV Thương mại Sabeco. Theo đó, KTNN xác định số thuế TTĐB phải truy thu trên cơ sở 1.914 tỷ đồng chênh lệch nói trên là 408,8 tỷ đồng.
Trước những phân tích, lập luận chặt chẽ của KTNN dựa trên cơ sở pháp luật, các đơn vị của Sabeco đã đồng thuận với kiến nghị truy thu thuế TTĐB năm 2013. Theo đó, vào ngày 18/12/2015, 9 đơn vị của Sabeco gồm Công ty mẹ và 8 Công ty con đã thực hiện nộp đủ vào NSNN số thuế TTĐB truy thu năm 2013 là 408,8 tỷ đồng theo kiến nghị của KTNN.
Chính sách quy định rõ ràng, chi tiết hơn
Giá tính thuế TTĐB đã được quy định tại Điều 5 của Thông tư số 05/2012/TT-BTC ngày 05/01/2012 của Bộ Tài chính. Đây cũng là căn cứ để KTNN đưa ra kiến nghị truy thu thuế TTĐB năm 2013 của Công ty mẹ Sabeco và các công ty con.
Bên cạnh việc kiến nghị xử lý tài chính, một vai trò quan trọng khác của KTNN là phải kịp thời phát hiện những hạn chế, bất cập của các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Do đó, cũng từ cuộc kiểm toán tại Sabeco năm 2014 về niên độ tài chính 2013, KTNN đã phát hiện Thông tư 05/2012/TT-BTC chỉ quy định về các cơ sở kinh doanh thương mại nói chung, không quy định rõ cơ sở thương mại độc lập hay không độc lập. Vì vậy, KTNN đã kiến nghị Bộ Tài chính nghiên cứu, soạn thảo văn bản sửa đổi cách tính thuế TTĐB trình Chính phủ, trong đó xác định rõ các công ty thương mại là các công ty con và các công ty thương mại là những công ty độc lập để có cách tính thuế phù hợp.
Thực hiện theo kiến nghị của KTNN, Bộ Tài chính đã kịp thời soạn thảo, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 108/2015/NĐ-CP ngày 28/10/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế TTĐB và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TTĐB. Trên cơ sở đó, ngày 24/11/2015, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 195/2015/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 108/2015/NĐ-CP.
Tại Điểm b, Khoản 1, Điều 4 của Nghị định số 108/2015/NĐ-CP và Điều 5 của Thông tư số 195/2015/TT-BTC đều quy định rõ trường hợp cơ sở sản xuất hàng hóa chịu thuế TTĐB bán hàng cho các cơ sở kinh doanh thương mại thì giá làm căn cứ tính thuế TTĐB là giá bán của cơ sở sản xuất mặt hàng chịu thuế TTĐB bán ra nhưng không được thấp hơn 7% so với giá bán bình quân của các cơ sở kinh doanh thương mại bán ra. Cơ sở kinh doanh thương mại được quy định tại Điểm b, Khoản 1, Điều 4 của Nghị định và Điều 5 của Thông tư này là cơ sở không có quan hệ công ty mẹ, công ty con, hoặc công ty con trong cùng công ty mẹ với cơ sở nhập khẩu, cơ sở sản xuất và là cơ sở đầu tiên trong khâu lưu thông thương mại. Quan hệ công ty mẹ, công ty con được xác định theo quy định của Luật DN.
Để làm rõ hơn, chi tiết hơn giúp cho cơ quan quản lý và đơn vị thực hiện chính sách hiểu đúng, trong Thông tư số 195/2015/TT-BTC đã lấy ví dụ tình huống: Tổng công ty bia B là đơn vị sở hữu thương hiệu bia B, bán nguyên vật liệu chính cho các đơn vị sản xuất sản phẩm bia B. Các đơn vị sản xuất bán sản phẩm bia B cho Công ty TNHH MTV thương mại bia B là công ty con của Tổng công ty bia B. Công ty TNHH MTV thương mại bia B bán sản phẩm bia B cho các Công ty cổ phần thương mại khu vực là công ty con của Công ty TNHH MTV thương mại bia B. Các Công ty cổ phần thương mại khu vực ký hợp đồng bán sản phẩm bia B cho các đại lý cấp 1 (không có quan hệ công ty mẹ, công ty con với Tổng công ty bia B, Công ty TNHH MTV thương mại bia B, các công ty cổ phần thương mại khu vực); các đại lý cấp 1 bán sản phẩm bia B cho các đại lý cấp 2, nhà hàng, người tiêu dùng... Theo đó, cơ sở sản xuất thực hiện tính, kê khai và nộp thuế TTĐB theo giá bán ra của các Công ty cổ phần thương mại khu vực nhưng không được thấp hơn 7% so với giá bán bình quân trong tháng của cùng loại sản phẩm do các đại lý cấp 1 bán ra.
Với những quy định chặt chẽ, rõ ràng như vậy, chắc chắn cả phía cơ quan quản lý và đơn vị chấp pháp đều có căn cứ để thực hiện tính đúng, tính đủ số thuế TTĐB.
Báo cáo kiểm toán phát hành ngày 04/02/2015 của KTNN cho biết, các công ty con (đơn vị sản xuất) của Sabeco kê khai nộp thuế TTĐB đối với sản phẩm do các công ty con sản xuất, Công ty mẹ kê khai nộp thuế TTĐB đối với sản phẩm do 2 nhà máy hạch toán phụ thuộc sản xuất, giá tính thuế TTĐB là giá bán ra tại Công ty TNHH MTV Thương mại Sabeco (công ty con 100% vốn của Tổng công ty).
Theo giải thích của Tổng công ty, giá tính thuế TTĐB là giá bán ra tại Công ty TNHH MTV Thương mại Sabeco do Tổng công ty ban hành quyết định và giá bán ra tại Công ty TNHH MTV Thương mại Sabeco không thấp hơn 10% so với giá bán ra tại các Công ty cổ phần Thương mại khu vực (các công ty con do Công ty TNHH MTV Thương mại Sabeco sở hữu trên 90% vốn điều lệ).
Số liệu báo cáo của các đơn vị cho biết, tổng doanh số chưa tính thuế do chênh lệch giữa giá bán ra của các Công ty cổ phần Thương mại khu vực và giá bán ra tại Công ty TNHH MTV Thương mại Sabeco trong năm 2013 là 1.914 tỷ đồng.
Tuy nhiên, theo KTNN, Công ty TNHH MTV Thương mại Sabeco và các Công ty cổ phần Thương mại khu vực đều là những đơn vị thuộc hệ thống sản xuất kinh doanh của cơ sở sản xuất là Công ty mẹ, không phải là cơ sở thương mại độc lập và Tổng công ty là đơn vị quyết định giá bán ra tại các Công ty cổ phần Thương mại khu vực, nên giá tính thuế TTĐB phải là giá bán ra của Công ty cổ phần Thương mại khu vực, không phải là giá bán ra tại Công ty TNHH MTV Thương mại Sabeco. Theo đó, KTNN xác định số thuế TTĐB phải truy thu trên cơ sở 1.914 tỷ đồng chênh lệch nói trên là 408,8 tỷ đồng.
Trước những phân tích, lập luận chặt chẽ của KTNN dựa trên cơ sở pháp luật, các đơn vị của Sabeco đã đồng thuận với kiến nghị truy thu thuế TTĐB năm 2013. Theo đó, vào ngày 18/12/2015, 9 đơn vị của Sabeco gồm Công ty mẹ và 8 Công ty con đã thực hiện nộp đủ vào NSNN số thuế TTĐB truy thu năm 2013 là 408,8 tỷ đồng theo kiến nghị của KTNN.
Chính sách quy định rõ ràng, chi tiết hơn
Giá tính thuế TTĐB đã được quy định tại Điều 5 của Thông tư số 05/2012/TT-BTC ngày 05/01/2012 của Bộ Tài chính. Đây cũng là căn cứ để KTNN đưa ra kiến nghị truy thu thuế TTĐB năm 2013 của Công ty mẹ Sabeco và các công ty con.
Bên cạnh việc kiến nghị xử lý tài chính, một vai trò quan trọng khác của KTNN là phải kịp thời phát hiện những hạn chế, bất cập của các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Do đó, cũng từ cuộc kiểm toán tại Sabeco năm 2014 về niên độ tài chính 2013, KTNN đã phát hiện Thông tư 05/2012/TT-BTC chỉ quy định về các cơ sở kinh doanh thương mại nói chung, không quy định rõ cơ sở thương mại độc lập hay không độc lập. Vì vậy, KTNN đã kiến nghị Bộ Tài chính nghiên cứu, soạn thảo văn bản sửa đổi cách tính thuế TTĐB trình Chính phủ, trong đó xác định rõ các công ty thương mại là các công ty con và các công ty thương mại là những công ty độc lập để có cách tính thuế phù hợp.
Thực hiện theo kiến nghị của KTNN, Bộ Tài chính đã kịp thời soạn thảo, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 108/2015/NĐ-CP ngày 28/10/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế TTĐB và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TTĐB. Trên cơ sở đó, ngày 24/11/2015, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 195/2015/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 108/2015/NĐ-CP.
Tại Điểm b, Khoản 1, Điều 4 của Nghị định số 108/2015/NĐ-CP và Điều 5 của Thông tư số 195/2015/TT-BTC đều quy định rõ trường hợp cơ sở sản xuất hàng hóa chịu thuế TTĐB bán hàng cho các cơ sở kinh doanh thương mại thì giá làm căn cứ tính thuế TTĐB là giá bán của cơ sở sản xuất mặt hàng chịu thuế TTĐB bán ra nhưng không được thấp hơn 7% so với giá bán bình quân của các cơ sở kinh doanh thương mại bán ra. Cơ sở kinh doanh thương mại được quy định tại Điểm b, Khoản 1, Điều 4 của Nghị định và Điều 5 của Thông tư này là cơ sở không có quan hệ công ty mẹ, công ty con, hoặc công ty con trong cùng công ty mẹ với cơ sở nhập khẩu, cơ sở sản xuất và là cơ sở đầu tiên trong khâu lưu thông thương mại. Quan hệ công ty mẹ, công ty con được xác định theo quy định của Luật DN.
Để làm rõ hơn, chi tiết hơn giúp cho cơ quan quản lý và đơn vị thực hiện chính sách hiểu đúng, trong Thông tư số 195/2015/TT-BTC đã lấy ví dụ tình huống: Tổng công ty bia B là đơn vị sở hữu thương hiệu bia B, bán nguyên vật liệu chính cho các đơn vị sản xuất sản phẩm bia B. Các đơn vị sản xuất bán sản phẩm bia B cho Công ty TNHH MTV thương mại bia B là công ty con của Tổng công ty bia B. Công ty TNHH MTV thương mại bia B bán sản phẩm bia B cho các Công ty cổ phần thương mại khu vực là công ty con của Công ty TNHH MTV thương mại bia B. Các Công ty cổ phần thương mại khu vực ký hợp đồng bán sản phẩm bia B cho các đại lý cấp 1 (không có quan hệ công ty mẹ, công ty con với Tổng công ty bia B, Công ty TNHH MTV thương mại bia B, các công ty cổ phần thương mại khu vực); các đại lý cấp 1 bán sản phẩm bia B cho các đại lý cấp 2, nhà hàng, người tiêu dùng... Theo đó, cơ sở sản xuất thực hiện tính, kê khai và nộp thuế TTĐB theo giá bán ra của các Công ty cổ phần thương mại khu vực nhưng không được thấp hơn 7% so với giá bán bình quân trong tháng của cùng loại sản phẩm do các đại lý cấp 1 bán ra.
Với những quy định chặt chẽ, rõ ràng như vậy, chắc chắn cả phía cơ quan quản lý và đơn vị chấp pháp đều có căn cứ để thực hiện tính đúng, tính đủ số thuế TTĐB.
HỒNG THOAN