Nỗ lực phục hồi kinh tế gặp khó do xuất nhập khẩu giảm
Kinh tế - Ngày đăng : 18:24, 10/03/2023
Xuất khẩu gặp khó do nhu cầu của thế giới giảm
Theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, việc suy giảm kinh tế toàn cầu đã tác động đến sản xuất và xuất khẩu nhanh hơn dự kiến. Chỉ trong 2 tháng đầu năm 2023, chỉ số sản xuất công nghiệp đã giảm 6,3% so với cùng kỳ; tổng kim ngạch xuất nhập giảm khoảng 13% (xuất khẩu ước đạt 49,45 tỷ USD, giảm 10,4%; nhập khẩu ước đạt 46,6 tỷ USD, giảm 16%).
Tuy nhiên, cán cân thương mại tiếp tục ở mức xuất siêu 2,82 tỷ USD). Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 13% so với cùng kỳ, quy mô và tốc độ tăng đang dần bắt kịp với với tốc độ tăng của cùng kỳ các năm trước dịch bệnh.
Phân tích về nguyên nhân dẫn đến suy giảm, các chuyên gia cho rằng, có cả nguyên nhân đến từ cả yếu tố bên trong và bên ngoài. Cụ thể, tình hình bên ngoài có sự cạnh tranh chiến lược các nước lớn; xung đột Nga - Ukraine khiến giá nhiên liệu đầu vào, năng lượng và logistics toàn cầu vẫn ở mức cao đã tác động đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp trong nước.
Trong khi lạm phát vẫn ở mức cao, chính sách tiền tệ chưa được nới lỏng, xu hướng thắt chặt chi tiêu mua sắm các sản phẩm thông thường và xa xỉ tại một số thị trường tiêu thụ lớn (Mỹ, EU) đã khiến nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dệt may, da giày, đồ gỗ, linh kiện điện tử… giảm mạnh. Cùng với đó, việc Trung Quốc mở cửa trở lại cũng tạo nhiều áp lực cạnh tranh đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Tại thị trường trong nước, sức mua dù đã khôi phục nhưng vẫn còn yếu, chưa kích thích sản xuất, đầu tư và tiêu dùng, hoạt động mua hàng trở lại giảm. Đáng chú ý để tháo gỡ hơn cả là sự thiếu hỗ trợ, liên kết giữa thị trường nội địa và các ngành sản xuất. Trong khi đó, sức ép lạm phát, lãi suất cao cũng tiếp tục ảnh hưởng đến cầu tiêu dùng các sản phẩm cao cấp cũng như thông thường.
Một nguyên nhân được nhiều chuyên gia đề cập đến chính là các doanh nghiệp còn khó khăn trong việc tiếp cận vốn, lãi suất ngân hàng và chi phí đầu vào vẫn ở mức cao, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đang ở trong bối cảnh rất khó khăn do thiếu đơn hàng, khả năng hấp thụ vốn đã bắt đầu giảm.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, dự báo tình hình quốc tế thời gian tới vẫn còn diễn biến phức tạp. Kinh tế thế giới đang ở giai đoạn khó khăn, hồi phục chậm, tổng cầu giảm; lạm phát và lãi suất vẫn duy trì ở mức cao khiến nhu cầu tiêu dùng tiếp tục giảm tại các quốc gia trên thế giới, trong đó có khu vực châu Âu, châu Mỹ. Xung đột tại Ukraine tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực và rất khó đoán định khiến đầu tư giảm và gián đoạn.
Vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam luôn quan ngại là các nước phát triển ngày càng quan tâm đến các vấn đề an toàn cho người tiêu dùng, phát triển bền vững, chống biến đổi khí hậu và dựng lên những tiêu chuẩn mới, quy định mới liên quan đến chuỗi cung ứng, nguyên liệu sạch, lao động, môi trường đối với các sản phẩm nhập khẩu.
Cần lưu ý hơn cả là một số quốc gia đang dự định áp đặt thêm các quy định cho hàng hóa nhập khẩu như thu phí carbon, yêu cầu về hàm lượng tái chế đối với hàng nhập khẩu… - lãnh đạo Bộ Công Thương khuyến nghị.
Kịp thời ứng phó với tình hình, có giải pháp chính sách phù hợp
Trong bối cảnh hiện nay, các doanh nghiệp những mong thị trường trong nước là cứu cánh, giúp phần nào giảm bớt khó khăn cho tiêu thụ hàng hóa, tuy nhiên, thực tế cho thấy sức mua trong nước vẫn hồi phục chậm, sản xuất gặp khó khăn do thiếu hụt đơn hàng. Kèm theo đó, những khó khăn do việc tiếp cận vốn, lãi suất ngân hàng và chi phí đầu vào nguyên vật liệu vẫn ở mức cao, chưa được tháo gỡ.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng không nên quá bi quan với tình hình hiện nay, khi mà một số khu vực kinh tế lớn như Trung Quốc, Mỹ đang tăng trưởng cao hơn dự báo. Một số nền kinh tế đang nổi tại châu Á như Ấn Độ, ASEAN tăng trưởng khả quan.
Bên cạnh đó, xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường các nước chủ lực ở khu vực châu Âu vẫn duy trì ở mức tăng trưởng dương, ngoại trừ Liên bang Nga. Các chính sách kích cầu đầu tư công và hỗ trợ doanh nghiệp của Nhà nước đang tiếp tục phát huy tác dụng trong việc phục hồi các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên còn chỉ ra rằng, việc thực hiện các cam kết của Việt Nam hướng tới sản xuất sản phẩm xanh, bảo vệ môi trường tại COP26 sẽ tạo lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh nhu cầu các sản phẩm xanh, bảo vệ môi trường ở khu vực châu Âu, châu Mỹ ngày càng gia tăng.
Theo công bố của S&P Global ngày 01/02/2023, số lượng đơn đặt hàng mới của khu vực sản xuất tại Việt Nam tiếp tục giảm nhưng đã giảm với tốc độ chậm hơn và một tín hiệu đáng mừng là số lượng đơn đặt hàng xuất khẩu mới lần đầu tiên đã tăng trong 3 tháng.
Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước kịp thời ứng phó với tình hình, bắt nhịp với xu hướng toàn cầu, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục theo sát diễn biến của kinh tế thế giới, nhất là các điều chỉnh chính sách của các nền kinh tế lớn như Mỹ, Trung Quốc, EU, Nhật Bản… có ảnh hưởng tới thương mại với Việt Nam, từ đó kịp thời đưa ra cảnh báo cho cộng đồng doanh nghiệp và tham mưu cho Chính phủ các phản ứng chính sách phù hợp.
Về thị trường xuất khẩu, cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh tận dụng các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) đã có, Việt Nam sẽ thúc đẩy đàm phán các FTA mới như: FTA với các nước khối Mercosur (Brazil, Argentina, Uruguay, Paraguay) để đưa FTA này thành động lực khai thác thị trường Mỹ La Tinh, bởi khu vực thị trường Bắc Âu, Đông Âu và Mỹ La Tinh vẫn còn rất nhiều tiềm năng, dư địa khai thác.
Trong khi cần tranh thủ sự hồi phục nhanh của các thị trường khu vực ASEAN và một số nước châu Á để đẩy mạnh xuất khẩu, Việt Nam cũng cần đánh giá toàn diện các biện pháp mở cửa trở lại của Trung Quốc, tranh thủ, tận dụng cơ hội giao lưu hợp tác giữa hai bên để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa; đặc biệt chú trọng nâng cao hiệu quả và điều tiết tốt tốc độ thông quan tại cửa khẩu và thực hiện hiệu quả Đề án xuất khẩu chính ngạch.
Cùng với đó, Bộ trưởng Công Thương cho rằng, cần triển khai hiệu quả “Đề án thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu trực tiếp vào mạng phân phối nước ngoài đến năm 2030”; tập trung xây dựng Chiến lược phát triển các thị trường đến năm 2030 để có định hướng tổ chức thực hiện bài bản, hiệu quả. Đồng thời, hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng khai thác hiệu quả các thị trường mà Việt Nam đã ký FTA.