Kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng 6,3% năm 2023

Kinh tế - Ngày đăng : 19:58, 13/03/2023

(BKTO) - Kinh tế Việt Nam đã phục hồi mạnh mẽ vào năm 2022, với mức tăng trưởng đạt 8%, vượt mức trung bình 7,1% trong giai đoạn 2016-2019. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng GDP dự kiến sẽ chậm lại ở mức 6,3% vào năm 2023. Báo cáo Điểm lại - Cập nhật tình hình kinh tế tháng 3/2023 do Ngân hàng Thế giới (WB) công bố ngày 13/3 cho biết.
wb-2.jpg
Quang cảnh buổi công bố báo cáo Điểm lại - Cập nhật tình hình kinh tế tháng 3/2023.
Ảnh: Thành Đức

Tăng trưởng GDP sẽ chậm lại trong năm 2023 

Theo WB, kinh tế Việt Nam đã phục hồi mạnh mẽ vào năm 2022 một phần là do hiệu ứng cơ sở thấp, được thúc đẩy bởi phục hồi của tiêu dùng cá nhân trong nước sau đại dịch Covid-19 và hoạt động mạnh mẽ trong sản xuất định hướng xuất khẩu.

Tuy nhiên, đóng góp của khu vực công vào tăng trưởng còn hạn chế do việc triển khai các chương trình đầu tư công còn yếu kém. Trong khi việc làm phục hồi về mức trước Covid-19, nhu cầu toàn cầu yếu hơn đã dẫn đến tình trạng các đơn đặt hàng và xuất khẩu chậm lại trong quý IV/2022, đồng thời gây ra áp lực mới lên thị trường lao động.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trung bình là 3,1%. Lĩnh vực tài chính của Việt Nam chịu nhiều áp lực hơn trong năm 2022, trong khi cán cân tài khóa ước tính thặng dư.

Tốc độ tăng trưởng GDP dự kiến sẽ chậm lại ở mức 6,3% vào năm 2023. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng này dự kiến sẽ được cải thiện ở mức 6,5% vào năm 2024 khi các nền kinh tế đang là thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam phục hồi, Báo cáo cho biết.

Cũng theo WB, triển vọng của Việt Nam phản ánh những bất định gia tăng trong nền kinh tế toàn cầu. Tăng trưởng yếu hơn dự kiến ở các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, bao gồm: Hoa Kỳ, Trung Quốc và khu vực đồng Euro; điều kiện huy động tài chính bị thắt chặt; lạm phát trong nước gia tăng; bảng cân đối tài sản của khu vực doanh nghiệp, ngân hàng và hộ gia đình đang bộc lộ những yếu kém và khu vực tài chính đang có nguy cơ dễ tổn thương.

Khó khăn ở trong nước và nước ngoài đòi hỏi phải ứng phó chính sách theo hướng thận trọng và dựa vào bằng chứng, dữ liệu. Trong đó, cần quản lý chặt liên hệ giữa trăng trưởng và lạm phát, giám sát chắc khu vực tài chính. Các yếu tố thuận lợi bao gồm việc phục hồi tăng trưởng toàn cầu có thể nhanh hơn dự kiến và đẩy mạnh xuất khẩu. Vì vậy, tăng trưởng có thể cao hơn dự tính cơ sở.

Bà Carolyn Turk - Giám đốc Quốc gia WB tại Việt Nam - nhận định: “Việt Nam còn dư địa để triển khai các biện pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng, không như nhiều quốc gia khác. Thực hiện hiệu quả các dự án đầu tư công trọng điểm là một chìa khóa tăng trưởng trong cả ngắn và dài hạn. Đồng thời, chính sách tài khóa và tiền tệ phải đồng bộ để đảm bảo hỗ trợ nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô” .

Đẩy mạnh cải cách trong khu vực dịch vụ

Chuyên đề đặc biệt của Báo cáo về khu vực dịch vụ Việt Nam chỉ ra 4 nội dung cải cách có thể giúp khu vực này đem lại thêm nhiều việc làm và tạo thêm nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế.

wb-1.jpg
Theo các chuyên gia của WB, việc thực hiện 4 cải cách có thể giúp khu vực dịch vụ đem lại thêm nhiều việc làm và tạo thêm nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế Việt Nam. 
Ảnh: Thành Đức

Để có thể hoàn thành mục tiêu trở thành nền kinh tế thu nhập cao vào năm 2045, theo WB, Việt Nam cần khai thác hiệu quả hơn nữa khu vực dịch vụ. Muốn làm được điều này, Việt Nam phải thực hiện những cải cách nhằm nâng cao năng suất khu vực dịch vụ và đóng góp liên ngành để tăng năng suất trong các lĩnh vực công nghiệp chế tạo chế biến và nông nghiệp.

Khu vực dịch vụ của Việt Nam đang có đóng góp ngày càng lớn cho nền kinh tế, đồng thời thu hút ngày càng nhiều lao động và năng suất lao động cũng đang tăng lên trong thập kỷ qua kể từ năm 2019. Tuy nhiên, kết quả đạt được của Việt Nam trong khu vực dịch vụ còn chưa bắt nhịp được với các quốc gia như Malaysia, Philippines và Indonesia.

Kim ngạch xuất khẩu của những lĩnh vực dịch vụ giàu hàm lượng tri thức và đòi hỏi kỹ năng cao, được gọi là “dịch vụ đổi mới sáng tạo toàn cầu”, chỉ chiếm 9% tổng kim ngạch xuất khẩu dịch vụ và các lĩnh vực đó chỉ đóng góp 6,4% việc làm trong toàn khu vực dịch vụ (bao gồm công nghệ thông tin và truyền thông, tài chính và dịch vụ hành nghề chuyên môn).

Nguyên nhân ảnh hưởng đến năng suất là do quy mô doanh nghiệp còn nhỏ, những rào cản về thương mại dịch vụ, tỷ lệ áp dụng công nghệ thấp, thiếu kết nối với các ngành, lĩnh vực khác. Điều này cho thấy còn nhiều điều cần được cải thiện thông qua các chính sách phù hợp.

Để đẩy nhanh tăng trưởng trong khu vực này, Việt Nam cần cân nhắc 4 biện pháp sau:

Xóa bỏ rào cản về thương mại và đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này và triển khai cải cách để đẩy mạnh cạnh tranh cũng như khả năng tiếp cận tài chính cho các doanh nghiệp trong nước.

Khuyến khích áp dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo từng bước về sản phẩm và quy trình.

Tăng cường năng lực và kỹ năng làm việc cho cả người lao động và cán bộ quản lý.

Tập trung vào những dịch vụ có khả năng thúc đẩy tăng trưởng hơn nữa ở những ngành, lĩnh vực khác, cụ thể là các lĩnh vực chế tạo chế biến./.

THÀNH ĐỨC