Khơi thông vốn cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp

Tài chính - Ngày đăng : 16:27, 31/03/2023

(BKTO) - Sau giai đoạn tăng trưởng nóng với nhiều sai phạm được phát hiện, thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) gần như đóng băng, niềm tin của nhà đầu tư giảm sút. Theo giới chuyên gia, để khơi thông vốn cho thị trường này, cần có các biện pháp dài hạn, vĩ mô để khắc phục các điểm yếu về hành lang pháp lý và quy chế quản lý thị trường…
12.jpg
Thị trường TPDN Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn. Ảnh sưu tầm

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn trầm lắng

TS. Cấn Văn Lực - Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV - cho rằng, tổng quy mô phát hành TPDN năm 2022 chỉ đạt khoảng 338.000 tỷ đồng, giảm hơn 47% so với cùng kỳ năm 2021; trong đó, phát hành ra công chúng giảm 67%, phát hành riêng lẻ giảm 65%. Năm 2023, thị trường TPDN vẫn khá trầm lắng khi trong 2 tháng đầu năm có 2.600 tỷ đồng TPDN mới được phát hành, chỉ bằng 9,3% cùng kỳ năm 2022. Diễn biến này cho thấy, thị trường TPDN Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn khi lượng TPDN đáo hạn cao, tâm lý nhà đầu tư chưa ổn định sau các sai phạm, DN và nhà đầu tư chưa kịp thích ứng với các quy định pháp lý mới…

Bên cạnh đó, Báo cáo cập nhật thị trường TPDN ngày 07/3/2023 của Công ty Cổ phần Chứng khoán VNDIRECT còn cho thấy, ước tính giá trị đáo hạn TPDN năm 2023 khoảng 252.000 tỷ đồng, tăng 64% so với cùng kỳ, trong đó quý II, III/2023 khá thử thách với gần 160.000 tỷ trái phiếu đáo hạn. Nhóm DN bất động sản chiếm tỷ trọng lớn nhất với 43% tổng giá trị đáo hạn trái phiếu riêng lẻ trong năm 2023, tương đương 107.700 tỷ đồng.

Theo VNDIRECT, trong bối cảnh thị trường bất động sản trầm lắng, nhiều doanh nghiệp (DN) gặp khó về dòng tiền và hạn chế khả năng tiếp cận nguồn vốn, danh sách các DN chậm thanh toán các nghĩa vụ nợ đang dần tăng lên. Theo thông báo của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, đến ngày 05/3/2023, có khoảng 46 DN nằm trong danh sách chậm nghĩa vụ thanh toán lãi hoặc nợ gốc TPDN. “Chúng tôi ước tính tổng dư nợ TPDN của các DN này khoảng 121.100 tỷ đồng, chiếm khoảng gần 12% dư nợ TPDN toàn thị trường. Khoảng gần 38.500 tỷ đồng TPDN của các DN trong danh sách sẽ đáo hạn trong năm 2023, chiếm khoảng 15% tổng giá trị đáo hạn toàn thị trường cả năm” - VNDIRECT cho hay.

Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 08/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung và ngưng hiệu lực thi hành một số điều tại Nghị định số 65/2002/NĐ-CP quy định về chào bán, giao dịch TPDN riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán TPDN ra thị trường quốc tế. VNDIRECT đánh giá, Nghị định này sẽ tạo hành lang pháp lý cần thiết để xử lý một vài điểm nghẽn hiện nay trên thị trường TPDN. Tuy nhiên, để thị trường TPDN có thể phục hồi sẽ cần thêm nhiều giải pháp đồng bộ khác.

Đồng quan điểm, TS. Cấn Văn Lực nhấn mạnh, Nghị định số 08/2023/NĐ-CP là giải pháp tạm thời giúp tháo gỡ các khó khăn trước mắt cho thị trường. Để thị trường có thể phát triển lành mạnh, cần có các biện pháp dài hạn, vĩ mô để khắc phục các điểm yếu về hành lang pháp lý và quy chế quản lý thị trường, hạ tầng thị trường, nền tảng nhà đầu tư…

Nhiều giải pháp khơi thông vốn cho thị trường

Theo VNDIRECT, để thị trường TPDN có thể phục hồi sẽ cần thêm sự đồng bộ của các nhóm giải pháp:

Một là, nhiều giải pháp quyết liệt hơn từ DN để củng cố niềm tin của nhà đầu tư. Các DN bất động sản cũng phải nỗ lực tái cơ cấu, tái cấu trúc sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thực của thị trường, đồng thời có biện pháp xử lý hàng tồn kho nhằm thu tiền về để giải quyết những khó khăn hiện tại về dòng tiền.

Hai là, cơ quan quản lý cần có phương án đẩy nhanh giải quyết các thủ tục pháp lý cho các dự án bất động sản.

Ba là, tương tự bài học từ xử lý khủng hoảng TPDN tại các nước trong khu vực như: Hàn Quốc, Trung Quốc, việc hỗ trợ các DN tiếp cận được nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn tín dụng để giải quyết vấn đề thanh khoản ngắn hạn là rất quan trọng.

Còn theo TS. Cấn Văn Lực, để gỡ vướng cho thị trường vốn TPDN, cơ quan quản lý nhà nước cần lưu tâm 7 biện pháp:

Thứ nhất, quyết liệt chỉ đạo giải quyết những vi phạm về phát hành TPDN vừa qua để lấy lại niềm tin của các nhà đầu tư. Điều này sẽ giúp thị trường TPDN phục hồi, tạo điều kiện cho DN tiếp cận nguồn vốn để đầu tư, sản xuất và cả đảo nợ, đảm bảo quá trình phục hồi của nền kinh tế không bị gián đoạn.

Thứ hai, nhanh chóng cải cách thủ tục, điều kiện, rút gọn thời gian cấp phép để tạo điều kiện, có chính sách khuyến khích DN phát hành trái phiếu ra công chúng. Đây sẽ là kênh gọi vốn quan trọng của DN.

Thứ ba, có chính sách khuyến khích định hạng tín nhiệm, công bố thông tin định hạng tín nhiệm cho DN nói chung (không chỉ cho phát hành TPDN).

Thứ tư, hoàn thiện hạ tầng thị trường TPDN như: Thị trường thứ cấp tập trung, cơ sở dữ liệu về trái phiếu, về tài sản đảm bảo… Việc xây dựng và phát triển các thị trường thứ cấp an toàn là nội dung cần sớm triển khai để tăng thanh khoản, thu hút thêm dòng vốn đầu tư từ trong và ngoài nước.

Thứ năm, hoàn thiện cơ chế quản lý và giám sát thị trường, như: Cơ chế quản lý đối với trái phiếu sau phát hành (quản lý tài sản đảm bảo, giám sát dòng tiền, quản lý mục đích sử dụng vốn…); tăng mức chế tài đối với các hành vi vi phạm.

Thứ sáu,cải thiện chất lượng nhà đầu tư cá nhân trên thị trường thông qua tăng cường giáo dục tài chính cho nhà đầu tư cá nhân, đồng thời đưa ra các chính sách khuyến khích phát triển nhà đầu tư tổ chức.

Thứ bảy, thị trường TPDN Việt Nam là một cấu phần không thể tách rời của thị trường tài chính và bất động sản. Vì vậy, việc quản lý, định hướng phát triển cần được gắn chặt với hệ thống tài chính, việc áp dụng các quy chuẩn công bố thông tin, an toàn hệ thống... cần được giám sát chặt chẽ bởi cơ quan quản lý một cách phù hợp.

Bên cạnh đó, ông Lực còn cho rằng, Nhà nước cần quan tâm hơn nữa đến rủi ro hệ thống, lan truyền giữa ngân hàng - chứng khoán - bảo hiểm - bất động sản. Theo đó, cần nâng cao hiệu quả phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý; xây dựng mạng lưới an toàn tài chính; tăng tính độc lập, năng lực cho cơ quan thanh tra, giám sát cũng như vai trò của bảo hiểm tiền gửi; có đề án để sớm nâng hạng thị trường./.

Niềm tin sẽ đến từ sự chủ động minh bạch của chính DN, yêu cầu của cơ quan quản lý và quy định pháp luật. Khi có niềm tin, tự thị trường sẽ có thanh khoản.

Tổng thư ký Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam Đỗ Ngọc Quỳnh

HỒNG NHUNG