Luật Thủ đô (sửa đổi) phải giúp Hà Nội giải quyết được các vấn đề bức xúc
Địa phương - Ngày đăng : 10:00, 17/07/2023
Đảm bảo tính đặc thù vượt trội
Dự thảo Luật gồm 6 chương, 59 điều (tăng 2 chương, 32 điều so với Luật Thủ đô năm 2012 hiện hành). Nội dung dự thảo Luật bám sát 9 nhóm chính sách trong đề nghị xây dựng Luật Thủ đô (sửa đổi) đã được Chính phủ thông qua để quy phạm hóa thành các cơ chế, chính sách cụ thể, mang tính đặc thù vượt trội phục vụ cho sự nghiệp xây dựng, phát triển Thủ đô của cả nước.
Các điều khoản của dự thảo Luật được xây dựng để bảo đảm thể chế hóa đầy đủ, chính xác nhất đường lối, chủ trương của Đảng tại Nghị quyết số 15- NQ/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý, phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và các nghị quyết khác của Đảng có liên quan.
Theo đó, dự thảo Luật cho phép tách, bồi thường, hỗ trợ tái định cư, giải phóng mặt bằng ra khỏi dự án đầu tư công đối với các dự án nhóm B, nhóm C (Điều 38). Hà Nội được thực hiện các hình thức đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Điều 39); Thực hiện các dự án phát triển đô thị theo định hướng giao thông công cộng (TOD) (Điều 40); Thực hiện hình thức hợp đồng theo phương thức xây dựng - chuyển giao (BT) đối với các dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật, giao thông, hạ tầng xã hội (Điều 41).
Về huy động và sử dụng nguồn lực tài chính ngân sách cho phát triển Thủ đô, Dự thảo đưa ra 2 phương án, trong đó có phương án quy định ngân sách thành phố được giữ lại 100% các khoản thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thuộc thẩm quyền quản lý của Hà Nội (khoản 6 Điều 36).
HĐND Thành phố Hà Nội quyết định sử dụng ngân sách thành phố để thực hiện dự án đầu tư, công trình, dự án trọng điểm có tính chất vùng, liên tỉnh nằm trên ranh giới, địa giới hành chính giữa Thủ đô và địa phương khác, các dự án quốc lộ, cao tốc đi qua địa bàn Thủ đô phù hợp với quy hoạch và kế hoạch đầu tư công được cấp có thẩm quyền phê duyệt (khoản 6 Điều 37).
Thành phố Hà Nội được nhượng quyền kinh doanh, quản lý đối với các công trình hạ tầng văn hóa, thể thao, bảo tàng do Nhà nước đầu tư trên địa bàn Thủ đô; áp dụng phương thức BTL hoặc BLT đối với các công trình do tư nhân xây dựng, sở hữu và thành phố Hà Nội có nhu cầu sử dụng cho các mục đích công cộng (khoản 1 Điều 42).
Luật Thủ đô (sửa đổi) phải giúp Hà Nội giải quyết được các hạn chế, bất cập hiện nay, trước hết là cơ chế, chính sách tài chính để đầu tư phát triển hạ tầng, xử lý ô nhiễm môi trường, di dời các cơ sở y tế, giáo dục ra khỏi nội đô, cải tạo chung cư cũ...
Bí thư Thành ủy Hà Nội Đinh Tiến Dũng
Về bảo đảm quy hoạch, chỉnh trang tái thiết đô thị, Dự thảo Luật quy định quỹ đất của các cơ quan, đơn vị, cơ sở di dời khỏi khu nội đô lịch sử, đô thị trung tâm được ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình công cộng, phục vụ tái thiết đô thị và bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa cho khu nội đô lịch sử (khoản 2 Điều 21).
Khi lập quy hoạch chi tiết để mở rộng trục đường giao thông theo quy hoạch phải xác định vị trí, ranh giới, diện tích đất thu hồi trong vùng phụ cận để thực hiện dự án chỉnh trang đô thị, tái định cư tại chỗ, nhà ở, thương mại, dịch vụ, sản xuất, kinh doanh theo các quy định của pháp luật về đất đai và quy hoạch (khoản 3 Điều 21).
Đối với mô hình thành phố thuộc thành phố, Dự thảo Luật đã phân quyền mạnh cho HĐND, UBDN thành phố thuộc thành phố trong tổ chức bộ máy, đầu tư. Cụ thể: HĐND được quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể một số cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập đặc thù thuộc UBND thành phố thuộc thành phố theo quy định của Chính phủ (khoản 2 Điều 14); quyết định chủ trương đầu tư đối với các dự án thuộc thẩm quyền của HĐND cấp huyện theo quy định của Luật Đầu tư công và dự án đầu tư công nhóm A sử dụng vốn ngân sách địa phương... (khoản 6 Điều 44).
UBND được điều chỉnh một số nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND thành phố thuộc thành phố Hà Nội (Điều 15); cho phép UBND quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư đối với một số dự án thuộc thẩm quyền của UBND thành phố Hà Nội, bao gồm dự án đầu tư tư (khoản 7 Điều 44).
Về văn hóa, giáo dục, y tế, an sinh, xã hội, Dự thảo Luật quy định các chính sách đặc thù để bảo vệ và phát triển văn hóa như quy định phạm vi hỗ trợ, mức hỗ trợ cao hơn quy định hiện hành đối với một số đối tượng; có chính sách ưu đãi phát triển một số lĩnh vực trong ngành công nghiệp văn hóa (Điều 24).
Quy định một số chính sách đặc thù về phát triển giáo dục, đào tạo trên địa bàn Thủ đô như hỗ trợ học phí cho học sinh phổ thông và trẻ em nầm non không phân biệt trường công hay tư; cho phép cơ sở giáo dục phổ thông công lập của Thủ đô được liên kết giáo dục với cơ sở giáo dục nước ngoài (Điều 25).
Quy định cơ chế để phát triển mô hình khám bệnh, chữa bệnh y học gia đình, chi trả dịch vụ cấp cứu ngoại viện, khám sức khỏe định kỳ hằng năm cho người cao tuổi trên địa bàn Thủ đô (Điều 27). Quy định chính sách hỗ trợ giảm nghèo, giải quyết việc làm; quy định đối tượng; nội dung chi, mức chi cụ thể cho an sinh xã hội khác quy định hiện hành (Điều 28).
Huy động mọi nguồn lực để phát triển Thủ đô
Theo Bí thư Thành ủy Hà Nội Đinh Tiến Dũng, Luật Thủ đô có ý nghĩa vô cùng đặc biệt, nên các cơ quan, đơn vị và cá nhân được giao nhiệm vụ tham gia xây dựng cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm đóng góp để hoàn thiện Dự thảo Luật bảo đảm chất lượng.
Trong đó, phải rút kinh nghiệm từ hạn chế của Luật Thủ đô 2012, thể hiện được yêu cầu mà Nghị quyết số 15-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đề ra là có cơ chế đặc thù, vượt trột cho Thủ đô phát triển. Phát triển Thủ đô không phải trách nhiệm của riêng Thủ đô mà còn là trách nhiệm của cả nước; không chỉ huy động nguồn lực trong nước mà còn phải huy động cả nguồn lực ngoài nước.
Bí thư Thành ủy Hà Nội cũng lưu ý thêm một số nội dung mang tính kỹ thuật và vấn đề cần thiết để thống nhất nhận thức như: Việc sử dụng từ “Thủ đô” bảo đảm thống nhất, xuyên suốt vì đây là Luật Thủ đô; nêu khái niệm “thành phố trực thuộc Thủ đô” ở mức vừa phải, vì việc thực hiện phải căn cứ vào quy hoạch và các điều kiện cụ thể thực tế...
Ngoài ra, cần nêu bật được phần nội dung về Vùng Thủ đô, nhất là vai trò, vị trí của Vùng Thủ đô và Thủ đô làm căn cứ để định hình các cơ chế đặc thù vượt trội cho Thủ đô và Vùng Thủ đô phát triển./.