Ngành thép cần chuyển đổi xanh để không tụt hậu
Kinh tế - Ngày đăng : 09:05, 11/04/2024
4 điểm hạn chế của ngành thép trong nước
Theo Bộ Công Thương, sau hơn 10 năm thực hiện quy hoạch phát triển hệ thống sản xuất và hệ thống phân phối thép giai đoạn đến năm 2020, có xét đến năm 2025, cùng với sự phát triển mạnh của nền kinh tế đất nước, nhu cầu thép của Việt Nam đều tăng ở mức 2 con số mỗi năm.
Đáp ứng mức tăng ấy, sản lượng sản xuất thép của các doanh nghiệp trong nước tăng mạnh theo từng năm. Do vậy, các định hướng phát triển ngành thép Việt Nam đến nay tuy chưa đạt được đầy đủ mục tiêu đề ra nhưng cũng có bước phát triển mạnh mẽ, đạt được một số kết quả nhất định.
Cụ thể, thép xây dựng đã đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước, thép tấm cán nóng, cán nguội đáp ứng một phần. Sản lượng phôi thép liên tục tăng từ năm 2010 đã đạt khoảng 4,3 triệu tấn và đến năm 2016 đạt 7,8 triệu tấn và năm 2020 đạt 19,9 triệu tấn (năm 2020, năng lực sản xuất toàn ngành đạt khoảng 24 triệu tấn/năm). Năng lực sản xuất của các nhà máy trong nước đã đáp ứng đủ nhu cầu thép xây dựng thông thường. Một số sản phẩm xuất khẩu cao như: Tôn mạ, ống thép, thép cuộn cán nguội.
Tuy nhiên, các chủng loại thép khác phục vụ ngành chế biến chế tạo và công nghiệp hỗ trợ như: thép cuộn cán nóng, thép hợp kim, thép chế tạo cơ khí, thép tấm cán nóng, thép tấm cán nguội… còn phải nhập khẩu. Thép dùng cho chế tạo, thép hợp kim chưa sản xuất được.
Nhận định về ngành thép trong nước hiện nay, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) đã chỉ ra 4 điểm hạn chế.
Thứ nhất, về công nghệ, ngoại trừ một số khu liên hợp gang thép mới hình thành thời gian gần đây có công nghệ khép kín từ thượng nguồn với công suất thuộc nhóm trung bình cao của thế giới như Khu liên hợp gang thép Hưng Nghiệp Fomosa, Dung Quất… thì hầu hết đều có quy mô nhỏ (dưới 0,5 triệu tấn/năm), sử dụng công nghệ không khép kín, lạc hậu, tiêu hao nhiều năng lượng nên khả năng cạnh tranh thấp và gây ô nhiễm môi trường.
Thứ hai, về năng lực sản xuất và chủng loại sản phẩm, đến năm 2023, năng lực sản xuất phôi của toàn ngành thép Việt Nam là khoảng 28 triệu tấn/năm, trong đó thép cuộn cán nóng (HRC) là 7-8 triệu tấn/năm, thép xây dựng (khoảng 14 triệu tấn) đảm bảo 100% cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và một phần cho thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, cơ cấu nguyên liệu phục vụ sản xuất có 42% thép được sản xuất từ nguyên liệu là thép phế (chủ yếu là nhập khẩu) và 58% được sản xuất từ lò cao, sử dụng nguyên liệu là quặng sắt. Thép còn dùng để phục vụ ngành cơ khí, chế tạo. Thép cuộn cán nóng HRC chỉ sản xuất được 8 triệu tấn/năm trong khi nhu cầu là 10 triệu tấn.
Thứ ba, năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam còn khá thấp do nhà máy công suất nhỏ, thiết bị lạc hậu, tiêu tốn năng lượng và nguy cơ về môi trường, chất lượng thép không chiếm ưu thế so với sản phẩm thép nhập khẩu, nhất là thép chế tạo. Các doanh nghiệp trong nước chủ yếu cạnh tranh lẫn nhau, xuất khẩu còn rất hạn chế.
Thứ tư, ngành thép còn bị phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu nước ngoài dẫn đến tình trạng bị động về giá, khi giá nguyên liệu đầu vào biến động thì giá thép trong nước cũng phải điều chỉnh theo
Khuyến cáo doanh nghiệp ngành thép chuyển đổi xanh
Từ những hạn chế trên, Bộ Công Thương cho rằng, nhằm hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 của Chính phủ thì việc xây dựng Chiến lược phát triển ngành thép Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đóng vai trò định hướng giúp cho các cơ quan nhà nước và các địa phương xây dựng cơ chế, chính sách, huy động các nguồn lực để điều hành sự phát triển của ngành.
Mới đây, Bộ Công Thương đã đăng tải toàn văn Dự thảo Đề cương chiến lược phát triển các ngành thép Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của các đơn vị, tổ chức, cá nhân. Dự kiến đến tháng 6 tới, Bộ sẽ hoàn thiện Dự thảo lần 1, sau đó tiếp tục chỉnh sửa để hoàn thiện; tháng 9/2024 sẽ báo cáo để trình Chính phủ.
Chiến lược sẽ giúp cho các doanh nghiệp hoạt động trong ngành thép xây dựng kế hoạch dài hạn, ngắn hạn, cũng như chiến lược phát triển sản phẩm, đầu tư phát triển doanh nghiệp hài hòa với sự phát triển của ngành.
Ông Đỗ Nam Bình - Trưởng phòng Khoáng sản luyện kim, Cục Công nghiệp - nhận định, sản xuất thép sắt, thép là một trong những ngành chịu tác động lớn từ cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM). Chính sách này sẽ thí điểm áp dụng chuyển tiếp từ ngày 01/10/2023. Cơ chế CBAM được Liên minh châu Âu (EU) thí điểm áp dụng giai đoạn chuyển tiếp từ ngày 01/10/2023 và thực hiện đầy đủ từ năm 2026.
Hiện, EU là một trong những thị trường xuất khẩu top đầu của ngành thép Việt Nam. Theo nhận định, nếu các doanh nghiệp thép Việt Nam không ứng phó tốt với CBAM, xuất khẩu sang EU sẽ bị ảnh hưởng, nguy cơ hơn là mất thêm nhiều thị trường khác khi những quốc gia này đang xem xét áp dụng các quy định tương tự như CBAM.
Chính vì thế, ông Bình khuyến cáo, các doanh nghiệp sản xuất thép trong nước bắt buộc phải chuyển đổi sản xuất theo hướng “xanh hóa” để có thể nâng cao sức cạnh tranh.
Tuy nhiên, thực tế, giữa thép xanh và thép xám đang có sự chênh lệch lớn về giá thành. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí của doanh nghiệp tiêu thụ. Do đó, đại diện một số doanh nghiệp mong muốn trong công cuộc chuyển đổi xanh này, Chính phủ có những chính sách ưu tiên, hỗ trợ trong quá trình giảm phát thải để hướng tới mục tiêu phát triển xanh, bền vững; giúp doanh nghiệp sản xuất thép cung ứng sản phẩm thép xanh giá thành phù hợp mặt bằng thị trường. Vẫn biết bất cứ sự chuyển đổi nào ban đầu cũng sẽ có khó khăn, nhưng sự chung tay, chia sẻ của Chính phủ sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy tiến trình giảm phát thải của Việt Nam cũng như toàn cầu, vì mục tiêu chung mang lại lợi ích cho cộng đồng, xã hội.
Do vậy, để đạt được mục tiêu phát thải ròng carbon bằng "0" vào năm 2050, ngành thép cần xây dựng nhiệm vụ, lộ trình cụ thể trong thực hiện cắt giảm khí thải ngành thép. Để làm được thép xanh chắc chắn còn cả một chặng đường dài phía trước, đòi hỏi nguồn lực lớn cả về con người cũng như công nghệ, tài chính.
Từ góc độ doanh nghiệp, ông Phạm Công Thảo - Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam, Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Thép Việt Nam - VNSTEEL - cũng cho rằng, muốn xây dựng một ngành Thép Việt Nam thực sự vững mạnh, dần dần thay thế hoàn toàn các sản phẩm nhập khẩu, thép trong nước sẽ cần phải sản xuất được các sản phẩm chất lượng cao để phục vụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, cơ khí.
Hiện các nước phát triển trên thế giới đang xây dựng lộ trình phát triển xanh. Đây cũng chính là rào cản và thách thức lớn trong công tác xuất khẩu thép của Việt Nam.
Ông Thảo cũng thừa nhận, sản xuất thép của Việt Nam đang đi sau rất nhiều nước, còn thiếu và yếu về công nghệ. Chính vì thế, ngành thép Việt Nam cũng mong muốn Chính phủ có những hỗ trợ và hướng dẫn cụ thể về công nghệ sản xuất cho các doanh nghiệp trong công tác sản xuất xanh./.