Tăng tính tự chủ, hạn chế can thiệp hành chính vào hoạt động của doanh nghiêp
Pháp luật - Ngày đăng : 14:06, 07/10/2024
Nhà nước quản lý theo phần vốn góp tại doanh nghiệp
Sáng 07/10, UBTVQH cho ý kiến về Dự án Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại DN.
Trình bày Tờ trình Dự án Luật, Thứ trưởng Bộ Tài chính Cao Anh Tuấn cho biết, phạm vi điều chỉnh của Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại DN hiện hành (Luật số 69/2014/QH13) có nội dung “sử dụng vốn nhà nước”, “đầu tư vào sản xuất, kinh doanh” thể hiện sự chi tiết, bó hẹp về cách tiếp cận, hạn chế tính tự chủ của DN trong việc sử dụng vốn, tài sản trong hoạt động sản xuất, kinh doanh; còn thể hiện sự can thiệp hành chính của Nhà nước vào hoạt động của DN; chưa bao quát được công tác quản lý dòng vốn của nhà nước đầu tư tại DN; đồng thời chưa bao gồm nội dung sắp xếp, cơ cấu lại vốn nhà nước tại DN.
Do đó, cần thiết điều chỉnh phạm vi theo hướng không quy định cụ thể nội dung “sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp”. Theo đó, việc sử dụng vốn, tài sản được quy định theo hướng “đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp”. Các quy định về huy động vốn; mua, bán, sử dụng tài sản cố định; quản lý nợ phải thu, phải trả được giao cho DN quyết định nhằm xác định rõ Nhà nước là chủ sở hữu đầu tư vốn, quản lý theo phần vốn góp tại DN, không can thiệp hành chính vào hoạt động của DN; tăng cường phân cấp mạnh gắn với trách nhiệm giải trình của DN.
Về quản lý vốn nhà nước đầu tư tại DN, ông Tuấn cho biết, Dự thảo quy định theo hướng Chính phủ thống nhất quản lý vốn thông qua cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn, cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn quản lý theo phần vốn tại DN có vốn đầu tư của Nhà nước.
Thẩm tra Dự án Luật, đa số ý kiến Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội tán thành với mục đích và các quan điểm xây dựng Luật Quản lý, đầu tư vốn nhà nước tại DN, đặc biệt là quan điểm cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong hoạt động quản lý, đầu tư vốn nhà nước tại DN gắn với phân công rõ, phân cấp mạnh cho cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước và DN…
Đa số ý kiến trong cơ quan thẩm tra cũng nhất trí với phạm vi điều chỉnh trong Dự thảo Luật, song đề nghị cần làm rõ phương thức quản lý đối với vốn nhà nước tại các DN có phần vốn nhà nước dưới 50% vốn điều lệ. Đồng thời, đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng, bảo đảm bao quát, xử lý các vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành Luật, đánh giá rõ tác động và tính khả thi của các nội dung sửa đổi vì phạm vi điều chỉnh của Dự thảo Luật có nhiều thay đổi so với Luật số 69.
Bao quát về đối tượng, tránh nguy cơ thất thoát, lãng phí
Phát biểu tại Phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh, việc sửa đổi Luật phải trên tinh thần cụ thể hoá đầy đủ quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về thay đổi cơ cấu lại, phát triển DN nhà nước có vốn nhà nước; tách bạch, phân định rõ chức năng, chủ sở hữu tài sản vốn nhà nước với chức năng quản lý vốn nhà nước đối với mỗi loại hình DN, chức năng quản trị kinh doanh của DN.
Đồng thời, đảm bảo nguyên tắc Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh, quản trị DN, tăng cường phân cấp phân quyền. “Sửa luật lần này nhấn mạnh vào phân cấp, phân quyền” - Chủ tịch Quốc hội nêu rõ.
Cùng quan điểm, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định nhấn mạnh, nếu không phân cấp, phân quyền, việc gì cũng phải trình cấp trên thì DN không phát huy được. "DN đã chịu trách nhiệm toàn diện mà việc gì cũng phải đi xin thì làm sao chịu trách nhiệm toàn diện được... Việc gì nằm ngoài kế hoạch thẩm quyền phê duyệt mà đang rất có lợi là không dám làm, mất hết thời cơ, mất hết tính linh hoạt” - Phó Chủ tịch Quốc hội nói.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh nhận xét, Dự thảo Luật thay thế toàn bộ bố cục, cách tiếp cận, điều chỉnh rất nhiều nội dung cụ thể, bổ sung nhiều quy định mới so với Luật số 69/2014/QH13, trong đó có nhiều nội dung quy định hạn chế hơn đối với hoạt động của các DN do Nhà nước nắm giữ từ trên 50% đến 100% vốn điều lệ.
Tuy nhiên, Cơ quan soạn thảo chưa có báo cáo giải trình về lý do nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế và đánh giá tác động các nội dung sửa đổi này tới hoạt động của DN, chưa thiết kế hết các chi tiết và quy định chuyển tiếp.
Về đối tượng áp dụng, theo Phó Chủ tịch Quốc hội, Điều 2 Dự thảo Luật quy định đối tượng áp dụng bao gồm DN do Nhà nước nắm giữ từ trên 50% đến dưới 100% vốn điều lệ là không phù hợp.
Bởi, khác với các DN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, Nhà nước không nắm quyền kiểm soát tuyệt đối các DN trên 50% vốn điều lệ mà đóng vai trò là cổ đông, là thành viên góp vốn. Việc quản lý vốn nhà nước tại DN được thực hiện thông qua việc có ý kiến để người đại diện chủ sở hữu vốn biểu quyết, quyết định tại cuộc họp Hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, đại hội cổ đông mà không quản lý trực tiếp đối với pháp nhân của DN.
Quy định tại Dự thảo Luật đang tạo ra khoảng trống pháp lý đối với các DN do Nhà nước nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ - đang là đối tượng áp dụng của Luật số 69/2014/QH13, đặc biệt là các DN do Nhà nước nắm giữ từ trên 36% - 50% vốn điều lệ, Nhà nước có quyền phủ quyết theo quy định của DN.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh
Mặt khác, đây không phải là luật về DN nhà nước mà là luật quản lý đầu tư vốn nhà nước tại DN. “Do đó, quy định tại Dự thảo Luật đang tạo ra khoảng trống pháp lý đối với các DN do Nhà nước nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ - đang là đối tượng áp dụng của Luật số 69/2014/QH13, đặc biệt là các DN do Nhà nước nắm giữ từ trên 36% - 50% vốn điều lệ, Nhà nước có quyền phủ quyết theo quy định của DN. Đồng thời, thiếu vắng các quy định pháp luật điều chỉnh việc quản lý vốn nhà nước tại các tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật chuyên ngành có vốn đầu tư của Nhà nước nắm quyền kiểm soát” - Phó Chủ tịch Quốc hội phân tích.
Vì vậy, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Thanh đề nghị nghiên cứu, cân nhắc việc bổ sung đối tượng này để bảo đảm tính bao quát các trường hợp có vốn đầu tư nhà nước; quản lý, kiểm tra, giám sát chặt chẽ nguồn lực nhà nước tại DN, tránh nguy cơ thất thoát, lãng phí và tránh tạo khoảng trống pháp lý.
Quan tâm đến vấn đề phân phối lợi nhuận và sử dụng Quỹ Đầu tư phát triển tại Điều 15, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh nêu: Dự thảo Luật quy định DN có vốn đầu tư của Nhà nước trên 50% đến dưới 100% vốn điều lệ trích không quá 50% vào Quỹ đầu tư phát triển để tại DN sử dụng để đầu tư bổ sung vốn vào DN thực hiện các dự án đầu tư kinh doanh, dự án tăng cường năng lực quản trị của DN; Số dư Quỹ Đầu tư phát triển để tại DN khi DN không có nhu cầu, không có kế hoạch sử dụng được nộp về ngân sách nhà nước tương ứng với tỷ lệ phần vốn của nhà nước tại DN.
Băn khoăn về quy định này, ông Thanh cho rằng, quy định “không quá 50%” tức là có thể từ 1- 49 %. “Vấn đề này Chính phủ cần quy định chi tiết trong trường hợp nào là 20%, trường hợp nào là 30% và trường hợp nào là 40%, còn quy định như thế này thì rất rộng. Tương tự, cần quy định rõ trong thời gian bao lâu mà DN không có nhu cầu thì nộp về ngân sách nhà nước. Việc nộp về ngân sách nhà nước hoặc điều chuyển cũng cần phải đánh giá có phù hợp với mục đích của Quỹ hay không và phải có các căn cứ để DN thực hiện” - ông Thanh nói.