Bàn giải pháp xây dựng vị thế của Việt Nam trên bản đồ Halal toàn cầu

Kinh tế - Ngày đăng : 11:21, 27/10/2024

(BKTO) - Với vai trò là một “mắt xích” quan trọng trong chuỗi cung ứng nông sản, thực phẩm, hàng tiêu dùng… toàn cầu, Việt Nam có nhiều tiềm năng và triển vọng để đẩy mạnh phát triển ngành Halal. Vấn đề đặt ra là cần có những giải pháp tổng thể, hiệu quả để thúc đẩy, phát triển mạnh mẽ ngành Halal Việt Nam, từ đó tạo dựng vị thế của Việt Nam trên bản đồ Halal toàn cầu.
halal.jpg
Tiềm năng, triển vọng của thị trường Halal toàn cầu rất lớn. Ảnh minh họa: S.T

Nhiều tiềm năng để phát triển ngành Halal

Thông tin về ngành Halal, ông Nguyễn Văn Thuận - Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, thị trường Halal toàn cầu có quy mô lớn với hơn 2 tỷ người Hồi giáo vào năm 2024, chiếm 20% dân số thế giới. Về quy mô kinh tế, quy mô nền kinh tế Halal toàn cầu được dự báo sẽ đạt 7.700 tỷ USD vào năm 2025 và sẽ tăng lên khoảng 10.000 tỷ USD vào năm 2028.

Các sản phẩm Halal bao gồm nhiều lĩnh vực đa dạng như thực phẩm, đồ uống, dược phẩm, mỹ phẩm, dệt may, thủ công mỹ nghệ… Thị trường tiêu thụ sản phẩm Halal phân bổ rộng khắp thế giới, từ các nước Hồi giáo đến phi Hồi giáo. Mức chi tiêu và sử dụng các sản phẩm Halal có xu hướng ngày càng tăng, không chỉ ở những người theo đạo Hồi mà cả những người không theo đạo Hồi, do sản phẩm Halal đáp ứng nhiều tiêu chí về vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng và bảo vệ môi trường…

“Đây là những thông tin ấn tượng đối với bất kỳ một ngành công nghiệp sản xuất nào trên thế giới” - ông Thuận nhấn mạnh.

Đối với Việt Nam, đại diện Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, Việt Nam được đánh giá có nhiều tiềm năng để phát triển ngành Halal.

Cụ thể, về vị trí địa lý, Việt Nam có vị trí gần những thị trường tiêu thụ sản phẩm Halal lớn. Tại châu Á có khoảng 62% dân số là người Hồi giáo; ngay tại Đông Nam Á, tín đồ Hồi giáo cũng chiếm khoảng 42% dân số, tập trung nhiều nhất tại các quốc gia Brunei, Indonesia, Malaysia.

Về thị trường, quy mô thị trường nông nghiệp, thực phẩm Halal dành cho người Hồi giáo trên thế giới đạt hơn 2.320 tỷ USD vào năm 2022 và được dự báo đạt hơn 4.115 tỷ USD vào năm 2030. Cùng với đó, thị trường Halal được đánh giá có tốc độ tăng trưởng cao, dư địa phát triển lớn do dân số theo đạo Hồi ngày càng gia tăng. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2023-2030 dự đoán đạt 7,7%/năm.

Đặc biệt, đối với một số khu vực như thị trường Trung Đông với 90% dân số theo đạo Hồi, do điều kiện tự nhiên khắc nghiệt không thích hợp để sản xuất nông nghiệp nên khu vực này có nhu cầu nhập khẩu 80% hàng hóa lương thực, thực phẩm, tương đương khoảng 40 tỷ USD mỗi năm…

Trước nhu cầu lớn của thị trường Halal, về khả năng cung cấp, đáp ứng của Việt Nam, theo ông Thuận, Việt Nam có năng lực xuất khẩu và thương hiệu thực phẩm, nông sản thuộc top 20 thế giới. Bên cạnh đó, Việt Nam có nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực thuộc top đầu thế giới như gạo, chè, điều, cà phê, hồ tiêu, tôm, cá... cũng là những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người Hồi giáo; nhiều sản phẩm trong số đó đã được cộng đồng các quốc gia Hồi giáo tin dùng như cà phê, chè, các loại đậu... Đặc biệt, một số lượng lớn sản phẩm nông sản, thực phẩm của Việt Nam đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm phù hợp với chứng nhận Halal (chứng nhận VietGAP, GobalGAP, chứng nhận hữu cơ, HACCP, ISO...).

Ngoài ra, Việt Nam hiện có khoảng gần 1.000 doanh nghiệp được chứng nhận Halal với các doanh nghiệp dẫn dắt như TH True Milk, Cà-phê Trung Nguyên... là tiền đề thúc đẩy, gia tăng số lượng doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng nông sản, thực phẩm Halal trong thời gian tới…

Từ góc nhìn quốc tế, TS. Yousif S.AlHarbi - Phó Chủ tịch Trung tâm Halal Ả-rập Xê-út, Cơ quan Thực phẩm và dược phẩm Ả-rập Xê-út (SFDA) cho biết, Việt Nam đang nổi lên như một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng Halal toàn cầu. Với nguồn tài nguyên dồi dào, vị trí địa lý chiến lược và cam kết về chất lượng, Việt Nam ở vị thế thuận lợi để trở thành một trung tâm lớn cho các dịch vụ và sản phẩm được chứng nhận Halal.

“Tôi đánh giá cao sự hợp tác giữa Ả-rập Xê-út (thị trường thực phẩm Halal lớn nhất tại khu vực Trung Đông – Bắc Phi) và Việt Nam, tin tưởng hai nước có thể cùng nhau tạo ra một hệ sinh thái Halal thịnh vượng không chỉ mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia mà còn đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng và bền vững của nền kinh tế Halal toàn cầu” - ông Yousif S.AlHarbi nói.

Từ góc độ địa phương, ông Nguyễn Trúc Sơn - Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre chia sẻ, là địa phương nhận được sự hỗ trợ của Bộ Ngoại giao trong công tác xúc tiến sản phẩm Halal, thời gian qua thông qua việc tăng cường hợp tác quốc tế về Halal, các doanh nghiệp của tỉnh đã được tiếp cận thông tin về thị trường, hiểu rõ hơn về cách thức phát triển sản phẩm Halal và kết nối với các đối tác Halal toàn cầu.

Năm 2023, kim ngạch trao đổi thương mại giữa Việt Nam với 10 đối tác thương mại lớn là thành viên Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (OIC) đạt 45,7 tỷ USD.

20241022_145906-1-.jpg
Việt Nam đã có nhiều sản phẩm nông sản, thực phẩm thâm nhập được thị trường Halal toàn cầu. Ảnh minh họa: D.T

Vượt thách thức để tham gia sâu, hiệu quả vào thị trường Halal toàn cầu

Với vai trò là cơ quan được giao chủ trì và triển khai Đề án “Tăng cường hợp tác quốc tế để xây dựng và phát triển ngành Halal Việt Nam đến năm 2030”, lãnh đạo Bộ Ngoại giao cho biết, bên cạnh những lợi thế, tiềm năng, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức khi tham gia vào thị trường Halal toàn cầu.

Trước hết, các cơ quan quản lý nhà nước, địa phương và doanh nghiệp Việt Nam chưa có nhiều thông tin về thị trường Halal toàn cầu, các quy định thương mại, tập quán kinh doanh, tiêu dùng, văn hóa Hồi giáo, đặc biệt là các yêu cầu, quy định về tiêu chuẩn Halal và chứng nhận Halal.

Bên cạnh đó, Việt Nam chưa có khuôn khổ pháp lý đầy đủ về sản phẩm, dịch vụ và hoạt động chứng nhận Halal. Đây là điều kiện rất quan trọng để phát triển ngành Halal một cách bài bản, chuyên nghiệp và bền vững.

Mặt khác, Việt Nam chưa thật sự hình thành một hệ sinh thái Halal, theo đó hiện chưa có các cơ sở sản xuất và hệ thống phân phối, bán lẻ dành riêng cho sản phẩm Halal, các khách sạn, cơ sở du lịch đạt tiêu chuẩn Halal…

Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp, địa phương gặp khó khăn trong việc xin cấp chứng nhận Halal. Chi phí cấp chứng nhận Halal cao, không có giá trị vĩnh viễn và không có tiêu chuẩn thống nhất trên phạm vi toàn cầu. Việt Nam cũng chưa có đủ nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển ngành Halal quy mô lớn phục vụ xuất khẩu…

Trước những thách thức trên, đưa khuyến nghị để Việt Nam tham gia sâu, hiệu quả vào thị trường Halal toàn cầu trong thời gian tới, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần tập trung hỗ trợ kết nối địa phương, doanh nghiệp với các đối tác, thị trường Halal toàn cầu trong các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, du lịch, dệt may, dược phẩm, mỹ phẩm…; đẩy mạnh thu hút đầu tư, hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ về đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho địa phương, doanh nghiệp.

Song song với đó cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, chính sách quản lý nhà nước về Halal, tối ưu hóa quy trình chứng nhận, thúc đẩy thừa nhận, công nhận lẫn nhau về chứng nhận Halal. Đồng thời, đẩy mạnh giao lưu văn hóa, giao lưu nhân dân nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam với các quốc gia, cộng đồng Hồi giáo trên toàn thế giới…

Từ góc độ cơ quan quản lý nhà nước, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt chia sẻ, Việt Nam có nền tảng vững chắc về khoa học, công nghệ để nghiên cứu và phát triển các sản phẩm Halal chất lượng cao; cam kết tiếp tục phối hợp với các đối tác quốc tế để đẩy mạnh tiêu chuẩn hóa quy trình sản xuất và nâng cao năng lực chứng nhận Halal của Việt Nam nhằm nhằm đáp ứng những yêu cầu khắt khe của thị trường quốc tế.

“Năm 2024, Bộ Khoa học và Công nghệ đã thành lập Trung tâm Chứng nhận Halal quốc gia. Đây là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam xuất khẩu các sản phẩm Halal ra thị trường thế giới” - Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết thêm./.

DIỆU THIỆN