Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Pháp luật - Ngày đăng : 19:47, 23/11/2024
Không can thiệp hành chính vào hoạt động của doanh nghiệp
Trình bày Tờ trình Dự án Luật, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long nêu rõ, việc xây dựng Dự án Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp là cần thiết để nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, trước yêu cầu mới từ thực tiễn quản lý và hội nhập quốc tế; kịp thời khắc phục những hạn chế, tồn tại của luật hiện hành, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.
Dự thảo Luật gồm 8 Chương, 62 Điều. Trong đó, về phạm vi điều chỉnh, Phó Thủ tướng cho biết, thực tế thực hiện Luật Quản lý sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp hiện hành cho thấy cần thiết điều chỉnh phạm vi theo hướng không quy định cụ thể nội dung “sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp”.
Do vậy, tại Dự thảo Luật này, việc sử dụng vốn, tài sản được quy định theo hướng “đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp”; các quy định về huy động vốn; mua, bán, sử dụng tài sản cố định; quản lý nợ phải thu, phải trả được giao cho doanh nghiệp quyết định nhằm xác định rõ Nhà nước là chủ sở hữu đầu tư vốn, quản lý theo phần vốn góp tại doanh nghiệp, không can thiệp hành chính vào hoạt động của doanh nghiệp; tăng cường phân cấp mạnh gắn với trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp.
Về thẩm quyền đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp, Chính phủ trình Quốc hội điều chỉnh mức phân cấp theo hướng: Quốc hội quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư bổ sung vốn vào doanh nghiệp theo mức tương ứng với dự án quan trọng quốc gia. Chính phủ quy định thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư bổ sung vốn vào doanh nghiệp ngoài thẩm quyền của Quốc hội và quy định chi tiết trình tự, thủ tục, hồ sơ đầu tư bổ sung vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước. Thủ tướng Chính phủ quyết định hoặc phân cấp quyết định chủ trương đầu tư vốn để thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước 100% vốn điều lệ.
Về nguyên tắc, các dự án đầu tư của doanh nghiệp phải được cấp có thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy định của pháp luật đầu tư hoặc quyết định chủ trương đầu tư theo pháp luật đầu tư công được thực hiện theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền của pháp luật đầu tư hoặc pháp luật đầu tư công.
Cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn quyết định chủ trương dự án đầu tư thuộc nhóm A theo quy định của Luật Đầu tư công hoặc có tổng mức đầu tư bằng mức từ 50% vốn điều lệ ghi trên giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước 100% vốn điều lệ hoặc có ý kiến để người đại diện vốn biểu quyết quyết định chủ trương dự án đầu tư của doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước từ trên 50% đến dưới 100% vốn điều lệ. Doanh nghiệp quyết định phê duyệt và thực hiện dự án đầu tư còn lại.
Về nguyên tắc, thứ tự phân phối lợi nhuận sau thuế, Chính phủ đề xuất trích không quá 50% vào Quỹ Đầu tư phát triển để tại doanh nghiệp, việc quản lý và sử dụng Quỹ Đầu tư phát triển để tại doanh nghiệp thực hiện theo quy định của Chính phủ. Phần còn lại sau khi sử dụng, trích lập các quỹ theo quy định, doanh nghiệp nộp ngân sách nhà nước.
Theo phương án này, ước tính số nộp ngân sách nhà nước từ nguồn lợi nhuận, cổ tức được chia sẽ giảm khoảng 19.847 tỷ đồng/năm (theo số quyết toán thu ngân sách nhà nước năm 2021 đã được Quốc hội phê chuẩn với tổng số nộp ngân sách từ cổ tức, lợi nhuận, lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp là 69.463 tỷ đồng) và doanh nghiệp được sử dụng nguồn này theo quy định của Chính phủ.
Chỉ tập trung đầu tư vốn vào doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực then chốt, thiết yếu
Thẩm tra Dự án Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách Lê Quang Mạnh nêu rõ, Ủy ban Tài chính, Ngân sách tán thành với sự cần thiết ban hành Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp thay thế Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (Luật số 69).
Về các vấn đề cụ thể, ông Lê Quang Mạnh cho biết, về vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp được quy định tại Dự thảo Luật chủ yếu đưa ra các nguyên tắc xác định nguồn, phạm vi, điều kiện, hình thức đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp. Ủy ban Tài chính, Ngân sách đề nghị Cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát, bảo đảm đúng tinh thần của Nghị quyết số 12-NQ/TW. Theo đó, chỉ tập trung đầu tư vốn vào một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực then chốt, thiết yếu hoặc lĩnh vực mà các doanh nghiệp khác không đầu tư.
Bên cạnh đó, về thẩm quyền quyết định đầu tư vốn của doanh nghiệp chưa thực sự phù hợp với quan điểm phân cấp, phân quyền cho doanh nghiệp và còn can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp. Một số quy định về hoạt động đầu tư của doanh nghiệp chưa thống nhất với quy định pháp luật liên quan như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư công.
Cơ quan thẩm tra đề nghị cần rà soát kỹ các quy định để tránh chồng chéo, mâu thuẫn về khái niệm, về quản lý nhà nước, về hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Trường hợp đầu tư dự án sản xuất kinh doanh bằng vốn của doanh nghiệp thì do Hội đồng thành viên/Hội đồng quản trị/Chủ tịch Công ty quyết định và chịu trách nhiệm. Trường hợp đầu tư dự án sản xuất kinh doanh bằng vốn ngân sách cấp thì giao doanh nghiệp làm chủ đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư công.
Về quyền của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn, Dự thảo Luật quy định Ủy ban Quản lý vốn nhà nước là cơ quan chuyên trách thực hiện nhiệm vụ quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp và cá nhân hoặc tổ chức khác được Chính phủ giao thực hiện một số quyền hoặc chức năng cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn. Cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn có quyền quyết định phê duyệt “kế hoạch kinh doanh” của doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước (mục tiêu, doanh thu, lợi nhuận, phương án phân phối lợi nhuận, số nộp ngân sách nhà nước, kế hoạch đầu tư phát triển…).
Ủy ban Tài chính, Ngân sách đề nghị giao thẩm quyền quyết định kế hoạch sản xuất kinh doanh từ cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn sang doanh nghiệp nhằm thể chế hóa Nghị quyết số 12-NQ/TW về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động của DNNN theo nguyên tắc thị trường.
Cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn chỉ cho ý kiến về một số chỉ tiêu chủ yếu để bảo đảm phù hợp với chiến lược kinh doanh và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp như mục tiêu, doanh thu, lợi nhuận, phân phối lợi nhuận, số nộp ngân sách.