Trình Quốc hội chủ trương đầu tư 2 dự án đường bộ cao tốc

Kinh tế - Ngày đăng : 16:27, 19/05/2025

(BKTO) - Tiếp tục Kỳ họp lần thứ 9, sáng 19/5, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh đã trình bày Tờ trình Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Quy Nhơn - Pleiku; Tờ trình Phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu (giai đoạn 1).
1.jpg
Quang cảnh phiên họp. Ảnh: ST

Đề xuất gần 44.000 tỷ đồng đầu tư đường bộ cao tốc Quy Nhơn -Pleiku

Trình bày Tờ trình Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Quy Nhơn - Pleiku, Bộ trưởng Trần Hồng Minh cho biết, hệ thống giao thông kết nối khu vực tỉnh Gia Lai và Kon Tum với Bình Định và các tỉnh vùng Duyên hải Nam Trung Bộ chủ yếu bằng tuyến đường bộ, thông qua các tuyến quốc lộ, như: 19, 24 và 25; vận tải đường thủy không có điều kiện phát triển; vận tải đường sắt không hiệu quả do chênh lệch địa hình, chi phí đầu tư rất cao; vận tải hàng không chủ yếu phục vụ vận tải hành khách cự ly dài tới khu vực phía Bắc và phía Nam.

Theo Bộ trưởng Trần Hồng Minh, việc sớm đầu tư Dự án là cấp thiết, vì: Thực hiện mục tiêu phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại theo định hướng của Đảng và Nhà nước; đáp ứng nhu cầu vận tải trên trục Đông - Tây và bảo đảm quốc phòng, an ninh; phân bổ lại và tạo ra không gian mới phục vụ phát triển kinh tế; phát triển phương thức vận tải bền vững hiện đại, góp phần giảm tai nạn giao thông.

Dự án được đề xuất đầu tư 4 làn xe; điểm đầu tại Quốc lộ 19B thuộc địa phận Thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định; điểm cuối tại đường Hồ Chí Minh thuộc địa phận TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai. Tổng chiều dài khoảng 125 km; trong đó đoạn qua địa phận tỉnh Bình Định khoảng 40 km, qua địa phận tỉnh Gia Lai khoảng 85 km.

Chính phủ đề xuất hình thức đầu tư Dự án là đầu tư công; sơ bộ tổng mức đầu tư (TMĐT) khoảng 43.734 tỷ đồng; sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước (NSNN) từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi NSNN năm 2024, nguồn ngân sách trung ương (NSTW) và địa phương giai đoạn 2021-2025 và giai đoạn 2026-2030. Dự án dự kiến thực hiện từ năm 2025, hoàn thành năm 2029.

Đề xuất tăng tổng mức đầu tư Dự án cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu hơn 3.700 tỷ đồng

2.jpg
Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh trình bày Tờ trình phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu (giai đoạn 1) . Ảnh: ST

Đối với Tờ trình Phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu (giai đoạn 1), Chính phủ đề xuất, điều chỉnh sơ bộ TMĐT toàn bộ Dự án tăng từ 17.837 tỷ đồng lên 21.551 tỷ đồng (tăng 3.714 tỷ đồng). Về điều chỉnh nguồn vốn: NSNN giai đoạn 2021-2025 là 17.124 tỷ đồng (tăng 2.854 tỷ đồng), trong đó NSTW là 12.144 tỷ đồng, ngân sách địa phương là là 4.980 tỷ đồng (tỉnh Đồng Nai là 2.969 tỷ đồng và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là 2.011 tỷ đồng); NSTW giai đoạn 2026 - 2030 là 4.427 tỷ đồng (tăng 860 tỷ đồng).

Về lý do điều chỉnh, Bộ Trưởng Trần Hồng Minh cho hay, quá trình triển khai thực hiện Dự án đã phát sinh một số yếu tố làm tăng TMĐT của các Dự án thành phần được Bộ Xây dựng và Ủy ban nhân dân (UBND) các tỉnh: Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu phê duyệt, dẫn đến tăng sơ bộ TMĐT Dự án đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 59/2022/QH15 ngày 16/6/2022…

Đề nghị tiếp tục rà soát các chi phí tăng, giảm của Dự án cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu

3.jpg
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính Phan Văn Mãi trình bày báo cáo thẩm tra. Ảnh: ST

Thẩm tra chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường bộ cao tốc Quy Nhơn - Pleiku, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính (KTTC) Phan Văn Mãi cho rằng: Chính phủ đề xuất phân chia Dự án thành 2 dự án thành phần, theo địa giới hành chính của tỉnh Bình Định và tỉnh Gia Lai. Tuy nhiên, thực hiện chủ trương sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, dự kiến tỉnh Bình Định và tỉnh Gia Lai sẽ sáp nhập thành tỉnh Gia Lai, khi đó Dự án sẽ nằm trọn trong địa bàn một tỉnh, do dó đề nghị nghiên cứu phương án phân chia dự án thành phần phù hợp với chủ trương sáp nhật tỉnh, năng lực quản lý của địa phương, yêu cầu kỹ thuật của Dự án nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, hiệu quả của toàn bộ Dự án.

Ngoài ra, Chính phủ đề xuất sử dụng nguồn vốn NSNN từ các nguồn tăng thu, tiết kiệm chi NSNN năm 2024; NSTW giai đoạn 2021-2025 NSTW và địa phương giai đoạn 2026-2030. Đồng thời, đề xuất cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt: “Dự án không phải thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn theo quy định của Luật Đầu tư công”, tuy nhiên theo Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý sử dụng tài chính, tài sản công và Hướng dẫn số 63-HD/BCĐTW ngày 28/4/2025 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực về một số nội dung trọng tâm về công tác phòng, chống lãng phí đã xác định những hành vi tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính công, gây lãng phí trong quản lý, sử dụng vốn đầu tư công: “Quyết định chủ trương đầu tư hoặc quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư không xác định được nguồn vốn và khả năng cân đối vốn”. Do đó, Ủy ban KTTC đề nghị Chính phủ căn cứ quy định của Luật Đầu tư công hiện hành báo cáo bổ sung việc thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn của Dự án.

Để bảo đảm tiến độ, hiệu quả cho Dự án thì việc cho phép áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt là cần thiết. Chính phủ đề xuất 9 nhóm cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt cho Dự án, theo đó cơ bản các chính sách đặc thù, đặc biệt này đã được Quốc hội cho phép áp dụng đối với một số dự án quan trọng quốc gia trong thời gian qua, do đó đề xuất của Chính phủ là có cơ sở.

Tuy nhiên, một số chính sách đã được điều chỉnh so với các chính sách tương tự được áp dụng cho một số dự án thời gian qua. Ví dụ: Về khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường phục vụ Dự án. Chính phủ đề xuất các tiểu dự án giải phóng mặt bằng được áp dụng cơ chế về mỏ vật liệu, trong khi các dự án trước đây chỉ cho phép áp dụng đối với các hạng mục xây dựng chính của dự án....

Do đó, đề nghị thuyết minh làm rõ hơn việc điều chỉnh một số chính sách này. Đồng thời, cần tiếp tục rà soát kỹ lưỡng các cơ chế, chính sách áp dụng, bảo đảm các cơ chế chính sách này khả thi, phù hợp đối với tính chất, mục tiêu của Dự án…

Đối với Tờ trình Phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu (giai đoạn 1), Chủ nhiệm KTTC Phan Văn Mãi cho rằng: Ủy ban KTTC cơ bản nhất trí với sự cần thiết điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án. Tuy nhiên, đề nghị làm rõ hơn nguyên nhân khách quan, chủ quan và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc chuẩn bị đầu tư Dự án chưa kỹ lưỡng dẫn đến tăng chi phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và chi phí đầu tư xây dựng so với sơ bộ TMĐT đã được Quốc hội quyết nghị cho Dự án.

Về điều chỉnh sơ bộ TMĐT Dự án, Ủy ban KTTC cho rằng, sơ bộ TMĐT Dự án tăng 3.714 tỷ đồng tương đương khoảng 20,8% sơ bộ TMĐT Dự án đã được Quốc hội quyết định là khá lớn, đề nghị tiếp tục rà soát các chi phí tăng, giảm của Dự án và phân tích, bổ sung để làm rõ hơn việc tăng, giảm các chi phí này nhằm bảo đảm tính chính đáng, hợp lý trong việc đề xuất điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án.

TMĐT Dự án tăng thêm là 3.714 tỷ đồng, dự kiến bố trí vốn trong giai đoạn 2021-2025 là 2.854 tỷ đồng và giai đoạn 2026 - 2030 là 860 tỷ đồng. Trong đó, đối với nguồn vốn NSNN giai đoạn 2021-2025, Ủy ban KTTC cho rằng, để có nguồn vốn bố trí kịp thời, bảo đảm Dự án không bị kéo dài, sớm đưa vào khai thác sử dụng, đề nghị Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng làm rõ hơn nguồn vốn và khả năng cân đối vốn cho Dự án.

Đối với nguồn vốn NSTW giai đoạn 2026 - 2030, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 70/2025/UBTVQH15 ngày 07/02/2025 quy định về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn NSNN giai đoạn 2026-2030, do dó đề nghị Chính phủ tổng hợp nhu cầu vốn của Dự án trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định…/.

LÊ HÒA