Đánh thức tiềm năng, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp vùng Tây Bắc
Xã hội - Ngày đăng : 08:14, 02/07/2025

Đây là thông tin được các đại biểu đề cập tại Diễn đàn "Kết nối sản xuất và thương mại nông, lâm, sản Tây Bắc" được tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp với trực tuyến chiều 01/7, tại tỉnh Sơn La.
Sự kiện do Báo Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Hội Làm vườn Việt Nam, Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường; Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật; Văn phòng SPS Việt Nam; Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam; Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam; Sở Nông nghiệp và Môi trường Sơn La thực hiện.
Diễn đàn lần này đặt mục tiêu thúc đẩy mô hình sản xuất theo chuỗi khép kín, từ trồng trọt - sơ chế - chế biến đến tiêu thụ, nâng cao giá trị sản phẩm gắn với xây dựng thương hiệu vùng miền, đồng thời lan tỏa tinh thần Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
Chưa khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh
Ông Lê Quốc Doanh - nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam cho biết, trong những năm gần đây, các địa phương ở Tây Bắc đã nỗ lực và chủ động trong việc chuyển đổi sản xuất, tận dụng các cơ hội và lợi thế của vùng để phát triển các sản phẩm nông nghiệp có giá trị cao.
Các sản phẩm như cà phê, chè, cây ăn quả đặc sản đã được phát triển và đạt được nhiều thành tựu. Diện tích trồng cà phê ở Tây Bắc tăng 54% và sản lượng tăng 265% trong 10 năm qua.

Tuy nhiên, ông Doanh lưu ý, tỷ lệ chứng nhận chất lượng sản phẩm vẫn chưa cao bằng các vùng khác. Một trong những khó khăn mà Tây Bắc đang phải đối diện là các tổ hợp sản xuất nông nghiệp mới như cây ăn quả, cây dược liệu đòi hỏi quy trình canh tác và quản lý khác với cây trồng truyền thống.
Do đó, các tỉnh Tây Bắc cần có thông tin khoa học, phổ biến kiến thức để nông dân tiếp cận và áp dụng các kỹ thuật mới. “Cần có sự liên kết chặt chẽ giữa sản xuất, chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm. Cần có sự hợp tác, phối hợp giữa các cơ quan, doanh nghiệp và địa phương để tháo gỡ các khó khăn” - Chủ tịch Hội Làm vườn Việt Nam cho biết.
Ông Lê Quốc Doanh cho rằng, cần tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi sản xuất, tập trung vào các sản phẩm nông nghiệp có lợi thế cạnh tranh. Tăng cường công tác khuyến nông, đào tạo nông dân về các kỹ thuật canh tác mới. Xây dựng và hoàn thiện chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp, từ sản xuất đến tiêu thụ. Tăng cường liên kết giữa các cơ quan, doanh nghiệp và địa phương để hỗ trợ nông dân...
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Sơn La Cầm Thị Phong cho biết, tỉnh có gần 120.000ha cây ăn quả và cây công nghiệp lâu năm, sản lượng tương ứng đạt 510.000 tấn và 102.000 tấn. Tỉnh đã phát triển mạnh các vùng cây chủ lực như xoài, nhãn, mận, cà phê, chè, và đạt nhiều kết quả ấn tượng so với năm 2016.
Toàn tỉnh hiện có 216 mã số vùng trồng phục vụ xuất khẩu, 201 chuỗi cung ứng sản phẩm an toàn, hơn 5.500ha đạt VietGAP, và gần 30.000 tấn cà phê được chứng nhận bền vững. Công tác chế biến và tiêu thụ được đẩy mạnh, thông qua gần 560 cơ sở chế biến, hàng nghìn điểm sấy long nhãn, hệ thống kho lạnh, đưa nông sản vào chuỗi siêu thị lớn và sàn thương mại điện tử.
Tuy nhiên, Sơn La vẫn đối mặt nhiều khó khăn như địa hình dốc, sản xuất phân tán, chi phí cao, biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến năng suất; giống cây chưa đồng đều, tỷ lệ rải vụ thấp; tỷ lệ chế biến sâu và bao bì nhãn mác chưa đáp ứng yêu cầu xuất khẩu; thiếu liên kết hợp đồng bền vững với doanh nghiệp; đất trồng kém bền vững và cơ giới hóa còn hạn chế.
Hình thành vùng nguyên liệu, tăng cường chuỗi liên kết
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La Nguyễn Thành Công cho biết: Từ năm 2015 đến nay, tỉnh Sơn La đã đạt được những kết quả đột phá trong phát triển nông nghiệp bền vững. Ông nhấn mạnh, để thực hiện tốt các chủ trương, chính sách giai đoạn tới, Sơn La đang định hình rõ nét một hướng đi cho nông nghiệp địa phương: phát triển theo hướng hữu cơ, thông minh, ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Theo ông Công, trước tiên cần tổ chức sản xuất theo chuỗi khép kín, từ nông hộ, hợp tác xã đến doanh nghiệp, coi đây là yêu cầu tất yếu của lịch sử và phát triển bền vững. Thứ hai, khoa học, công nghệ không phải là điều gì cao siêu mà bắt đầu từ những việc rất cụ thể như kỹ thuật ghép mắt cây ăn quả - một điểm mạnh của Sơn La.
"Chính các nhà khoa học đã đồng hành nghiên cứu, chọn tạo và nhân giống cây trồng phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu và điều kiện canh tác của địa phương, giúp hình thành các sản phẩm đặc trưng gắn với từng vùng sản xuất" - ông Công nhấn mạnh.
Tại diễn đàn, đại diện lãnh đạo các tỉnh Lai Châu, Điện Biên cũng đã có những trao đổi về phát triển nông nghiệp tại địa phương, cũng như tham vấn những vấn đề nhằm thúc đẩy phát triển thị trường nông sản trên địa bàn.

Phát biểu kết thúc Diễn đàn, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam nhấn mạnh, với nhiều lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng và đa dạng sinh học, Tây Bắc được đánh giá là vùng tiềm năng trong phát triển nông lâm sản hàng hóa.
Thứ trưởng lưu ý, việc xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn là yếu tố cốt lõi, quyết định khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.
Các tỉnh Tây Bắc cần tập trung xây dựng chuỗi giá trị và tăng cường liên kết sản xuất. Với lợi thế của từng tỉnh, lãnh đạo địa phương cần khuyến khích doanh nghiệp và nông dân hợp tác theo chuỗi sản xuất khép kín, đảm bảo tiêu chuẩn từ đầu vào đến đầu ra, thay vì chỉ ký hợp đồng mua bán đơn thuần.
Thứ trưởng Trần Thanh Nam
Do đó, lãnh đạo các tỉnh Tây Bắc phải đặc biệt quan tâm đến công tác quy hoạch sau sáp nhập đơn vị hành chính. Cần rà soát, quy hoạch lại từng xã để xác định các vùng trồng chủ lực, quy mô sản xuất phù hợp, từ đó định hướng lại và tích hợp vào quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp địa phương.
“Xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn là yếu tố cốt lõi, quyết định khả năng tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Điển hình như tỉnh Sơn La đã xây dựng thành công 50.000ha vùng nguyên liệu dứa và chanh leo đạt chuẩn về giống, hạ tầng và quy trình canh tác” - Thứ trưởng cho biết.
Bên cạnh tổ chức lại sản xuất và ứng dụng khoa học, công nghệ, lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đề xuất nâng cao năng lực chế biến sâu và bảo quản sau thu hoạch. Trong đó, các cơ quan quản lý và hợp tác xã cần tiếp tục phối hợp với các doanh nghiệp lớn để xây dựng hệ thống sơ chế, đóng gói, kho lạnh tại các hợp tác xã, tổ hợp tác và đại lý thu gom, bảo đảm chất lượng nông sản theo yêu cầu thị trường.