Ngoại giao nỗ lực tạo đà, tạo thế đưa đất nước tiến lên “nấc thang” phát triển mới
Chính trị - Ngày đăng : 07:40, 02/09/2025
Đây là nhấn mạnh của Phó Thủ tướng, Nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn khi trả lời phỏng vấn báo chí về công tác ngoại giao.

Thưa Phó Thủ tướng, qua thực tiễn triển khai nhiệm vụ trong suốt 80 năm qua, đâu là những giá trị cốt lõi đã tạo nên bản sắc và truyền thống của nền ngoại giao Việt Nam?
Nền ngoại giao của Việt Nam ra đời, trưởng thành trong 30 năm kháng chiến và ngày càng lớn mạnh trong 40 năm đổi mới. Được trui rèn, thử thách trong những giai đoạn cam go nhất của lịch sử cách mạng Việt Nam đã để lại cho ngoại giao Việt Nam nhiều bài học còn nguyên giá trị.
Đó là bài học về việc bảo đảm cao nhất, trên hết và trước hết lợi ích quốc gia - dân tộc. Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 3 năm 1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn ngoại giao “phải luôn luôn vì lợi ích của dân tộc mà phục vụ” và tư tưởng của Người được các thế hệ lãnh đạo, cán bộ ngoại giao Việt Nam thấm nhuần, thực hiện trong suốt chặng đường lịch sử 80 năm qua. Đó cũng là bài học về sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng, nhạy bén trong nhận định và nắm bắt tình hình, quyết đoán trong việc đưa ra các quyết sách. Ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng ta đã xác định “điều cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối chính trị đúng đắn, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải trong chiến tranh và trưởng thành”.
Đó còn là bài học về kết hợp nội lực với ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, qua đó huy động được sự ủng hộ vô cùng to lớn cả về vật chất và tinh thần của nhân loại tiến bộ ủng hộ Việt Nam. Đó cũng là các bài học về kiên định về nguyên tắc nhưng linh hoạt về sách lược theo phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”; bài học về tầm quan trọng của đoàn kết, đồng thuận; là sự vận dụng nhuần nhuyễn “năm cái biết” (biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến), là khả năng tạo dựng thời cơ và chớp thời cơ, là ngoại giao tâm công giúp thu phục lòng người bằng chính nghĩa, tình người, lẽ phải và đạo lý.
Những bài học kinh nghiệm này đã góp phần hình thành nên những giá trị cốt lõi tạo nên một nền ngoại giao mang đậm bản sắc dân tộc và con người Việt Nam. Đó là một nền ngoại giao luôn vì lợi ích quốc gia - dân tộc, phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân; một nền ngoại giao bản lĩnh, kiên cường nhưng mềm mại, khôn khéo; mang đậm khí phách, bản lĩnh, trí tuệ của dân tộc Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Đồng thời, nền ngoại giao Việt Nam cũng có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố dân tộc và quốc tế, vừa tiếp thu tinh hoa từ bên ngoài vừa đóng góp tích cực và có trách nhiệm vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu và nền văn minh nhân loại.
Đất nước đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới, với mục tiêu đến năm 2045 – năm đánh dấu kỷ niệm 100 năm thành lập nước. Cùng với quốc phòng, an ninh, ngành ngoại giao là lĩnh vực trọng yếu, thường xuyên, đóng vai trò tiên phong trong việc kiến tạo và duy trì môi trường hòa bình, ổn định, phục vụ phát triển. Xin Phó Thủ tướng cho biết, ngành ngoại giao sẽ ưu tiên những nhiệm vụ trọng tâm nào để tiếp tục thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã giao phó, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế?
Thế giới đang đứng trước thời điểm bước ngoặt, với những diễn biến khó lường, phức tạp, những chuyển động sâu rộng về chính trị, an ninh, kinh tế, quân sự, khoa học - công nghệ. Trong nước, giai đoạn sắp tới có ý nghĩa quan trọng bản lề, nước rút trong việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển tới năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.
Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Với thế và lực mới của đất nước, ngành ngoại giao Việt Nam được kỳ vọng sẽ phát huy hơn nữa vai trò của mình, đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới. Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh “trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, ngoại giao Việt Nam phải vươn lên những tầm cao mới để hoàn thành những trọng trách vinh quang mới, xứng đáng là đội quân tiên phong, binh chủng hợp thành của cách mạng Việt Nam”. Điều đó đòi hỏi ngoại giao phải không ngừng đổi mới, nâng tầm hơn nữa cả trong tư duy và hành động.
Thứ nhất, đối ngoại cần phát huy vai trò tiên phong, trọng yếu, thường xuyền trong tạo lập và củng cố cục diện đối ngoại thuận lợi, thực hiện ba mục tiêu của đối ngoại là an ninh, phát triển và nâng cao vị thế của đất nước. Đặc biệt là đưa quan hệ với các nước đi vào chiều sâu, hợp tác hiệu quả, bền vững trên tất cả các mặt chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, khoa học công nghệ, giáo dục - đào tạo, văn hoá, giao lưu nhân dân.

Thứ hai, thông qua các hoạt động ngoại giao kinh tế, ngoại giao khoa học công nghệ, đối ngoại đóng vai trò mở đường, tranh thủ cơ hội, hóa giải thách thức, kiến tạo động lực phát triển mới cho đất nước, kết hợp hiệu quả giữa nội lực với ngoại lực. Đối ngoại cần góp phần đưa đất nước đi đúng xu thế phát triển của thời đại, nhất là các xu thế mới về kinh tế, thương mại, đầu tư, cuộc cách mạng khoa học công nghệ, kinh tế tri thức, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Thứ ba, không ngừng nâng tầm đóng góp của Việt Nam đối với hòa bình, hợp tác, phát triển và tiến bộ của nhân loại. Thế và lực mới cho phép chúng ta có điều kiện tham gia sâu hơn, trách nhiệm hơn trên các diễn đàn đa phương và vào việc giải quyết các vấn đề chung của cộng đồng quốc tế, qua đó đóng góp vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực cũng như trên thế giới.
Thứ tư, phát huy “sức mạnh mềm” của dân tộc, gia tăng hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tương xứng với tầm vóc lịch sử và văn hóa, vị thế chính trị và kinh tế của đất nước. Sức mạnh mềm của đất nước không chỉ giúp thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà còn giúp gắn kết Việt Nam với thế giới.
Thứ năm, xây dựng nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của kỷ nguyên mới, ngang tầm khu vực và vươn tầm quốc tế.
Vừa qua, Bộ Chính trị đã ban hành 4 nghị quyết “trụ cột” từ thể chế, khoa học công nghệ đến kinh tế tư nhân và hội nhập quốc tế. Phó Thủ tướng đánh giá như thế nào về nhiệm vụ và vai trò của ngoại giao trong việc bảo đảm triển khai 4 nghị quyết nhằm tạo sự kết gắn giữa “nội lực vững - ngoại lực mạnh” cho phát triển đất nước?
Nhìn lại lịch sử cách mạng của đất nước, chúng ta đều nhận thấy sự phát triển của đất nước luôn gắn liền với những xu thế, biến chuyển của thời đại. Chúng ta đang sống trong giai đoạn thế giới có những thay đổi mang tính thời đại. Đây cũng là thời kỳ chiến lược quan trọng của cách mạng Việt Nam để bước vào kỷ nguyên phát triển hùng mạnh của dân tộc, đạt mục tiêu 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước.
Trong bối cảnh đó, “bộ tứ trụ cột” nghị quyết là động lực để đưa Việt Nam “cất cánh” trong giai đoạn phát triển mới. Các Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị quyết 66 về đổi mới công tác xây dựng và thực thi pháp luật, Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết 59 về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới là những quyết sách chiến lược góp phần kiến tạo cơ hội, điều kiện thuận lợi cho mục tiêu phát triển mạnh mẽ, bứt phá của đất nước.
Trong đó, Nghị quyết số 59 đánh dấu bước ngoặt về đổi mới tư duy, cách tiếp cận trong quá trình hội nhập của đất nước, theo đó hội nhập quốc tế vừa được xác định là “trọng yếu, thường xuyên” vừa là “động lực quan trọng” đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Hội nhập quốc tế giờ đây không chỉ dừng lại ở việc định vị Việt Nam là quốc gia “đến sau”, “tham gia”, “gia nhập” mà xác định vị thế của quốc gia “xây dựng”, “định hình” và “dẫn dắt” các khuôn khổ hợp tác phù hợp với điều kiện và năng lực mới của đất nước.
Xin trân trọng cảm ơn Phó Thủ tướng!
Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 194 nước, thiết lập được mạng lưới 37 nước có quan hệ đối tác toàn diện trở lên, trong đó có đầy đủ các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, tất cả các nước ASEAN, toàn bộ các thành viên G7, 18/20 nền kinh tế G20, là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế.