Kinh tế sáng tạo - động lực mới cho phát triển đất nước trong kỷ nguyên số

Góc nhìn - Ngày đăng : 23:12, 09/09/2025

(BKTO) – Không chỉ đem lại những giá trị tinh thần, văn hóa ngày càng đóng góp to lớn hơn cho nền kinh tế thông qua ngành công nghiệp văn hóa và kinh tế sáng tạo trong kỷ nguyên số.
z5511614716948_235a31e687c605691823f28a3d65a640.jpg
Hành trình 80 năm văn hóa Việt Nam: Từ di sản đến kinh tế sáng tạo. Ảnh: N.Lộc

Di sản - điểm tựa của bản sắc và sức mạnh mềm

Trong hành trình phát triển của đất nước, di sản văn hóa luôn là nền tảng tinh thần bền vững, gắn kết cộng đồng, đồng thời mở ra những cơ hội để khẳng định vị thế Việt Nam trong khu vực và thế giới.

80 năm qua, từ những ngày đầu kháng chiến gian khổ đến thời kỳ đổi mới và hội nhập, di sản không chỉ được bảo tồn mà còn trở thành điểm tựa để dựng xây bản sắc và phát huy sức mạnh mềm quốc gia.

Việt Nam tự hào sở hữu một kho tàng di sản phong phú. Hiện cả nước có hơn 40.000 di tích và gần 70.000 di sản văn hóa phi vật thể được kiểm kê, trong đó có 36 di sản được UNESCO công nhận, ghi danh.

Mỗi di sản không chỉ là chứng tích của quá khứ, mà còn là nguồn lực để hiện tại và tương lai kiến tạo nên giá trị mới. Chẳng hạn, Nhã nhạc cung đình Huế, Ca trù, hay Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương không chỉ được gìn giữ như báu vật, mà còn trở thành sản phẩm văn hóa - du lịch đặc sắc, góp phần lan tỏa hình ảnh Việt Nam thân thiện, giàu truyền thống.

Kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy, quốc gia nào biết khai thác di sản để tạo ra giá trị gia tăng thì quốc gia đó sẽ có lợi thế lớn trong hội nhập toàn cầu. Hàn Quốc đã biến di sản phi vật thể như K-pop hay Hanbok thành công cụ quảng bá văn hóa và thu hút du lịch, góp phần hình thành “làn sóng Hallyu” lan tỏa khắp thế giới.

Nhật Bản biến nghệ thuật Kabuki, trà đạo, hay di sản Kyoto thành sản phẩm du lịch - dịch vụ có giá trị hàng chục tỷ USD mỗi năm. Ngay trong khu vực, Lào và Campuchia cũng đang tận dụng di sản Angkor hay Luang Prabang để xây dựng thương hiệu quốc gia.

Với Việt Nam, việc UNESCO công nhận quần thể Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc là di sản thế giới liên tỉnh thứ hai vào tháng 7/2025 là minh chứng cho tầm vóc và nỗ lực của chúng ta. Đó không chỉ là niềm tự hào mà còn mở ra cơ hội biến vùng đất di sản thành “cực tăng trưởng” du lịch văn hóa - tâm linh, kết nối kinh tế địa phương với dòng chảy toàn cầu.

Những bài học từ Hội An - thành phố di sản thế giới, từ Tràng An - di sản kép thiên nhiên và văn hóa, cho thấy khi gắn di sản với sinh kế cộng đồng, chúng ta không chỉ bảo tồn được giá trị mà còn nhân lên sức sống mới.

_dsc8996.jpg
Kinh tế số, kinh tế sáng tạo - động lực mới trong kỷ nguyên số. Ảnh: N.Lộc

Thực tiễn cho thấy, trong khoảng hai thập niên qua, các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ. Điện ảnh Việt Nam đang dần khẳng định vị trí qua những bộ phim thu hút hàng triệu khán giả, doanh thu hàng trăm tỷ đồng, như Mắt biếc, Bố già và gần đây là Mưa đỏ với doanh thu kỷ lục chỉ trong vài tuần công chiếu.

Âm nhạc chứng kiến những cú hích đặc biệt: concert BlackPink tại Hà Nội (2023) đưa hình ảnh Thủ đô ra thế giới, trong khi các ca sĩ trẻ như Phương Mỹ Chi với thành công tại Sing! Asia 2024 hay Mỹ Linh với show diễn quốc tế... cho thấy nghệ sĩ Việt Nam đã tự tin bước ra sân khấu toàn cầu.

Nếu như di sản là cội nguồn bản sắc, là sức mạnh mềm nâng bước dân tộc trên trường quốc tế thì công nghiệp văn hóa đang mở ra một chân trời mới - nơi văn hóa trở thành động lực phát triển kinh tế, tạo dựng thương hiệu quốc gia và lan tỏa sức sống Việt Nam.

Trong lĩnh vực thời trang và thiết kế, nhiều nhà thiết kế thời trang Việt Nam đã góp mặt tại các tuần lễ thời trang lớn, mang áo dài và chất liệu truyền thống ra thế giới.

Quảng cáo, mỹ thuật, trò chơi điện tử và nội dung số cũng ghi dấu bằng sự năng động của thế hệ trẻ. Chỉ riêng ngành game online, Việt Nam hiện nằm trong nhóm quốc gia có doanh thu cao ở Đông Nam Á, tạo việc làm cho hàng vạn lao động trẻ.

Đặc biệt, du lịch văn hóa đang trở thành “mũi nhọn kép”, vừa khai thác di sản vừa tạo giá trị kinh tế. Sự kiện quần thể Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc được UNESCO ghi danh là di sản thế giới liên tỉnh năm 2025 mở ra cơ hội biến vùng đất này thành trung tâm du lịch văn hóa - tâm linh của cả nước. Những mô hình thành công ở Hội An, Tràng An hay Huế là minh chứng cho việc kết hợp bảo tồn với khai thác bền vững.

Nhìn ra thế giới và trở lại với chính mình, có thể thấy rõ: di sản chính là “nguồn vốn đặc biệt” của quốc gia, nơi chứa đựng ký ức, niềm tự hào và sức mạnh mềm Việt Nam. Từ điểm tựa ấy, chúng ta có thể vững tin bước vào nền kinh tế sáng tạo, đưa văn hóa từ chỗ chỉ là nền tảng tinh thần trở thành một ngành công nghiệp năng động, góp phần nâng tầm đất nước trong kỷ nguyên mới.

Kinh tế sáng tạo - “đường băng” để Việt Nam cất cánh

Nếu công nghiệp văn hóa là “cánh cửa” để văn hóa bước vào nền kinh tế thì kinh tế sáng tạo chính là “đường băng” để Việt Nam cất cánh trong kỷ nguyên số.

Điểm đặc biệt của kinh tế sáng tạo không nằm ở tài nguyên hữu hình mà ở trí tuệ, ý tưởng và khả năng khai thác công nghệ nhằm tạo ra giá trị gia tăng cao. Đây chính là xu thế tất yếu, khi thế giới đang chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa vào vốn và lao động sang mô hình dựa trên đổi mới, sáng tạo và tri thức.

Quốc gia nào nắm bắt nhanh công nghệ số thì quốc gia đó sẽ chiếm ưu thế trong kinh tế sáng tạo. Hàn Quốc xây dựng chiến lược “K-Content” để đưa nội dung sáng tạo lên các nền tảng toàn cầu, tạo ra nguồn thu hàng chục tỷ USD mỗi năm. Anh quốc, với “Creative Economy Report”, đã khẳng định vai trò của các ngành sáng tạo khi đóng góp hơn 12% GDP. Singapore xây dựng hệ sinh thái “One North” - nơi hội tụ công nghệ, nghệ thuật và khởi nghiệp sáng tạo.

Ở Việt Nam, dấu ấn của kinh tế sáng tạo ngày càng rõ rệt. Các ngành nội dung số, game online, thương mại điện tử gắn với sản phẩm văn hóa, dịch vụ trải nghiệm thực tế ảo (VR/AR) hay bảo tàng số đã hình thành và phát triển nhanh chóng.

Nhiều bảo tàng tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Huế đã ứng dụng công nghệ 3D, thực tế tăng cường để tạo trải nghiệm mới cho du khách, giúp di sản “sống lại” theo cách hấp dẫn và gần gũi hơn với thế hệ trẻ. Không ít nghệ sĩ trẻ Việt Nam đã thử nghiệm triển lãm NFT, bán tác phẩm trên nền tảng blockchain và tiếp cận được thị trường toàn cầu.

dsc_0380.jpg
Du lịch văn hóa đang trở thành “mũi nhọn kép”, vừa khai thác di sản vừa tạo giá trị kinh tế. Ảnh: N.Lộc

Những bộ phim Việt Nam không chỉ dừng ở rạp truyền thống mà còn phát hành trực tuyến, tiếp cận hàng triệu khán giả quốc tế qua nền tảng số. Âm nhạc Việt có thêm không gian sáng tạo khi nghệ sĩ dễ dàng đưa sản phẩm lên Spotify, YouTube hay TikTok, từ đó lan tỏa nhanh chóng.

Chuyển đổi số cũng đang mang đến bước ngoặt cho ngành điện ảnh, âm nhạc và truyền thông. Điều này đặt ra yêu cầu về quản lý minh bạch, kiểm toán công nghệ và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ - để người sáng tạo yên tâm, nhà đầu tư tin tưởng và khán giả được thụ hưởng sản phẩm văn hóa chất lượng.

Với Việt Nam, chúng ta có lợi thế lớn: dân số trẻ, khả năng thích ứng nhanh với công nghệ và một kho tàng di sản, bản sắc độc đáo để biến thành sản phẩm sáng tạo. Vấn đề là làm sao để đầu tư có trọng điểm, xây dựng hạ tầng số, khuyến khích doanh nghiệp sáng tạo, đồng thời hoàn thiện thể chế để bảo đảm tính minh bạch, công bằng và bền vững.

Bên cạnh đó, cần có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực sáng tạo - những con người vừa am hiểu công nghệ, vừa có năng lực văn hóa, nghệ thuật, để dẫn dắt nền kinh tế mới.

Kinh tế sáng tạo chính là cầu nối để văn hóa Việt Nam vừa giữ được hồn cốt dân tộc, vừa hòa nhập sâu rộng vào thị trường toàn cầu. Khi di sản được “số hóa”, khi ý tưởng sáng tạo được “kinh tế hóa”, chúng ta đang từng bước biến văn hóa thành động lực phát triển mới, góp phần hiện thực hóa khát vọng đưa Việt Nam trở thành quốc gia đáng sống, sáng tạo và hội nhập./.

Nhà nghiên cứu, Đại biểu Quốc hội BÙI HOÀI SƠN