Nâng cao năng lực phòng vệ thương mại để doanh nghiệp Việt vững bước toàn cầu
Kinh tế - Ngày đăng : 15:44, 25/09/2025

Xu hướng gia tăng số vụ kiện phòng vệ thương mại
Hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng xuất khẩu ấn tượng trong nhiều năm qua, liên tục nằm trong nhóm 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất toàn cầu. Tuy nhiên, song hành với những cơ hội lớn là những thách thức không nhỏ, đặc biệt từ việc các thị trường nhập khẩu ngày càng gia tăng các biện pháp PVTM đối với hàng hóa Việt Nam.
Theo Bộ Công Thương, tính lũy kế đến cuối tháng 8/2025, có 292 vụ việc PVTM từ các thị trường đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam; trong đó có 160 vụ chống bán phá giá, 33 vụ chống trợ cấp, 59 vụ tự vệ và 40 vụ lẩn tránh thuế.
Theo thống kê của Cục PVTM (Bộ Công Thương), chỉ riêng năm 2024 đã có 32 vụ việc PVTM mới đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, phát sinh từ 12 thị trường - tăng gấp hơn 2 lần so với 15 vụ việc của năm 2023. Sáu tháng đầu năm 2025, con số này tiếp tục ở mức cao, với 14 vụ việc điều tra PVTM mới từ 9 thị trường, nhiều hơn 1 vụ so với cùng kỳ năm trước.
Đáng chú ý, các vụ kiện PVTM không chỉ gia tăng về số lượng mà còn phức tạp hơn khi nhiều quốc gia bắt đầu mở rộng điều tra ở những nội dung mới, chưa từng có tiền lệ. Phạm vi sản phẩm bị điều tra cũng ngày càng đa dạng, không chỉ dừng ở những ngành hàng chủ lực có kim ngạch lớn như tôm, cá tra, thép, gỗ, pin mặt trời…, mà còn lan sang cả những sản phẩm giá trị thấp và lượng xuất khẩu khiêm tốn như máy cắt cỏ, mật ong, đĩa giấy hay ghim dập...
Bên cạnh các thị trường truyền thống lớn, nhiều thị trường mới và các quốc gia đang phát triển như Nam Phi, Ai Cập, Brazil, thậm chí cả các nước ASEAN, cũng gia tăng điều tra PVTM đối với hàng Việt Nam. Đặc biệt, xu hướng điều tra ngày càng khắt khe hơn khi nhiều thị trường đưa ra yêu cầu cao đối với cả Chính phủ và DN bị điều tra: Rút ngắn thời hạn trả lời, yêu cầu bổ sung thông tin phức tạp, khó gia hạn thời gian…
Các chuyên gia lý giải sự gia tăng này từ nhiều nguyên nhân. TS. Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược thương hiệu và Cạnh tranh - phân tích: Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), mở ra cơ hội lớn để hàng hóa xuất khẩu thuận lợi hơn. Song, chính sự tăng trưởng mạnh mẽ đó đã tạo sức ép cạnh tranh đáng kể tại thị trường nhập khẩu, khiến ngành sản xuất trong nước của họ kiến nghị Chính phủ áp dụng biện pháp PVTM để bảo vệ.
Ở góc độ khác, ông Chu Thắng Trung - Phó Cục trưởng Cục PVTM, Bộ Công Thương - chỉ rõ: Thương mại toàn cầu ngày càng sôi động đồng nghĩa với áp lực cạnh tranh gay gắt từ hàng nhập khẩu. Các công cụ hạn chế nhập khẩu truyền thống không còn phát huy hiệu quả do vướng quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và cam kết FTA. Vì vậy, PVTM trở thành biện pháp “hợp pháp” được WTO cho phép để bảo vệ sản xuất trong nước.
Ngoài ra, áp lực chính trị - kinh tế nội bộ tại các quốc gia nhập khẩu, từ bảo đảm việc làm, duy trì tăng trưởng đến ổn định xã hội, càng thôi thúc họ áp dụng PVTM. Cộng thêm tình trạng dư thừa công suất mang tính cơ cấu ở một số ngành sản xuất trên thế giới, các cáo buộc bán phá giá và điều tra PVTM càng trở nên phổ biến.
Nâng cao năng lực phòng vệ thương mại để tạo “lá chắn”
Sự gia tăng cả về quy mô lẫn mức độ phức tạp của các vụ kiện PVTM đã và đang tạo ra nhiều tác động tiêu cực cho DN và ngành hàng sản xuất Việt Nam. Các biện pháp PVTM, một khi được áp dụng, sẽ trực tiếp kìm hãm đà tăng trưởng xuất khẩu, thậm chí làm DN mất hẳn thị trường vào tay đối thủ. Điều này không chỉ làm suy giảm lợi thế từ các FTA, mà còn ảnh hưởng đáng kể đến sản xuất trong nước, tạo gánh nặng chi phí pháp lý và tổn hại uy tín thương hiệu.
Trong bối cảnh đó, nâng cao năng lực PVTM trở thành yêu cầu cấp thiết, mang tính sống còn đối với DN Việt. Để thực hiện mục tiêu này, giới chuyên gia khuyến nghị: Trước hết, DN cần thường xuyên cập nhật các quy định pháp lý, chính sách thương mại của thị trường nước ngoài - yếu tố then chốt để giảm rủi ro và tránh vi phạm. Song song với đó, DN cần chủ động theo dõi thông tin, cảnh báo từ các cơ quan chức năng để sớm nhận diện nguy cơ bị điều tra.
Một yêu cầu quan trọng khác là xây dựng hệ thống quản trị minh bạch, chuẩn hóa hồ sơ, số liệu tài chính và chứng từ xuất xứ. Điều này không chỉ giúp DN sẵn sàng ứng phó khi có vụ việc, mà còn tạo niềm tin với cơ quan điều tra và đối tác quốc tế.
Đồng thời, DN phải thiết lập hệ thống truy xuất nguồn gốc rõ ràng, đa dạng hóa nguồn nguyên liệu đầu vào, tăng tỷ lệ tự chủ nguyên liệu nhằm đảm bảo hợp pháp về xuất xứ. Những bước đi này không chỉ bảo vệ DN trước các cáo buộc mà còn nâng cao vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Đa dạng hóa thị trường và sản phẩm cũng là chiến lược then chốt để giảm phụ thuộc vào một số quốc gia, tránh nguy cơ “sập cầu” đồng loạt khi có thay đổi chính sách. Đặc biệt, DN cần chuyển từ cạnh tranh bằng giá rẻ sang cạnh tranh bằng chất lượng, công nghệ và tiêu chuẩn sản phẩm, qua đó giảm thiểu nguy cơ bị cáo buộc bán phá giá hoặc trợ cấp gián tiếp.
Không kém phần quan trọng, DN nên đầu tư vào đội ngũ chuyên gia pháp lý và thương mại chuyên nghiệp để phân tích, đánh giá, đưa ra chiến lược ứng phó hiệu quả với các vụ kiện PVTM.
Về phía Nhà nước, ông Chu Thắng Trung cho biết, Cục PVTM đã vận hành Hệ thống cảnh báo sớm, cho phép thu thập và phân tích dữ liệu nhằm xác định các mặt hàng có nguy cơ cao bị điều tra. Danh sách cảnh báo sớm cũng được cập nhật thường xuyên, giúp DN chủ động điều chỉnh sản xuất và chiến lược xuất khẩu. Nhờ đó, nhiều DN đã không bị áp thuế PVTM, hoặc nếu có thì ở mức rất thấp, góp phần giữ vững và mở rộng thị trường.
Các chuyên gia dự báo, xu hướng điều tra PVTM trên thế giới sẽ ngày càng phổ biến và dày đặc hơn. Do đó, nâng cao nhận thức và năng lực ứng phó với PVTM không chỉ là “lá chắn” bảo vệ DN trước các vụ kiện, mà còn là yếu tố then chốt để DN Việt Nam khẳng định vị thế, trụ vững và đi xa hơn trên bản đồ xuất khẩu toàn cầu./.