Kiến tạo mô hình tăng trưởng mới để nền kinh tế bứt phá
Kinh tế - Ngày đăng : 20:39, 02/10/2025

Tăng trưởng kinh tế vẫn theo chiều rộng, dưới mức tiềm năng
Chia sẻ tại Diễn đàn Kinh tế mới năm 2025 với chủ đề “Sức bật kinh tế Việt Nam: Từ nội lực đến chuỗi giá trị toàn cầu” diễn ra chiều 02/10, Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương Nguyễn Thanh Nghị - cho biết, sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, có thu nhập bình quân đầu người thấp, Việt Nam đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế năng động, phát triển nhanh với quy mô GDP tăng trưởng vượt bậc và thu nhập bình quân đầu người tăng đáng kể. Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình từ năm 2008 và dự kiến thuộc nhóm quốc gia có thu nhập trung bình cao vào cuối năm nay. Quy mô GDP của Việt Nam ước năm 2025 đứng thứ 4 ASEAN, đứng thứ 32 thế giới và nằm trong nhóm 20 quốc gia có quy mô thương mại lớn nhất toàn cầu...
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, ông Nghị cũng chỉ rõ, tăng trưởng kinh tế nước ta vẫn chủ yếu theo chiều rộng, dưới mức tiềm năng và tốc độ có xu hướng giảm dần; mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam còn bất cập và dần tới hạn, thể hiện qua một số chỉ báo.
Thứ nhất, về chất lượng tăng trưởng, tăng trưởng vẫn dựa nhiều vào vốn, khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ, trong khi đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) còn thấp so với các nước công nghiệp hóa (chỉ khoảng 47% GDP cho giai đoạn 2020-2025, trong khi ở các nước công nghiệp hóa thành công thường trên 50 - 60%).
Năng suất lao động có cải thiện nhưng tăng chậm ở mức 5,6% năm 2024, thấp hơn mục tiêu 6,5% và vẫn ở mức thấp so với các nước trong khu vực (năm 2023 bằng khoảng 11,2% Singapore, 36,2% Malaysia, 64,6% Thái Lan, 27% Hàn Quốc, 28,6% Nhật Bản, 57,3% Trung Quốc, 84,8% Indonesia, 104,9% Philippines)…
Thứ hai, về cơ cấu kinh tế, hiện nay công nghiệp gia công - lắp ráp vẫn chiếm ưu thế, phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên liệu và công nghệ. Trong khi đó, nông nghiệp chậm đổi mới mô hình tăng trưởng, còn manh mún, thiếu chuỗi giá trị toàn cầu. Các mô hình kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tri thức… phát triển chậm so với tiềm năng.
Thứ ba, về môi trường đầu tư và cạnh tranh, lợi thế “dân số vàng” đang thu hẹp; lợi thế chi phí lao động thấp dần mất tác dụng khi tiền lương và chi phí sản xuất tăng lên, trong khi năng suất chưa bứt phá. Đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ chưa thực sự trở thành động lực chính của tăng trưởng.
Nêu thêm thách thức của nền kinh tế, GS,TS. Hoàng Văn Cường - Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam cho biết, xuất khẩu vẫn phụ thuộc chủ yếu vào khu vực FDI chiếm trên 70%, sự kết nối và lan tỏa từ khu vực FDI sang các doanh nghiệp trong nước rất hạn chế; hàm lượng giá trị gia tăng trong nước của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực còn thấp chỉ khoảng từ 30 - 35%; sản xuất trong nước chủ yếu đảm nhận những khâu có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị, nằm ở đáy “đường cong nụ cười”.
“Do vậy, năng suất lao động của việt Nam thuộc nhóm thấp nhất thế giới và chậm cải thiện. Nếu không thay đổi, chúng ta sẽ bỏ lỡ cơ hội của thời kỳ dân số vàng và có nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình” - ông Cường nhấn mạnh.

Đổi mới mô hình tăng trưởng là “mệnh lệnh” của thời đại
Bên cạnh những thách thức từ nội tại nền kinh tế, nhìn ra thế giới, ông Hoàng Văn Cường cho rằng, kinh tế thế giới hiện nay đang đứng trước những biến động nhanh, phức tạp, khó lường, đó là căng thẳng địa chính trị, cạnh tranh thương mại, cạnh tranh công nghệ gay gắt; cùng với các tiêu chuẩn quốc tế mới về thương mại, môi trường và sự gia tăng của những rào cản thương mại truyền thống, phi truyền thống của xu hướng bảo hộ dân tộc… Tất cả đang tạo ra nhiều thách thức cho sản xuất, xuất khẩu, tác động đến tăng trưởng khi nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn.
Dù vậy, trong bức tranh thách thức đó, ông Cường cho rằng, cánh cửa cơ hội mới lại đang rộng mở. Đó là cuộc cách mạng xanh, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa đang làm thay đổi cấu trúc sản xuất và vị thế thương mại toàn cầu. Ở nhiều lĩnh vực mới, khoảng cách giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển được coi như đứng cùng “vạch xuất phát”, nhiều quốc gia đã điều chỉnh chiến lược phát triển, tìm cách đặt chân vào các lĩnh mới, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu để gia tăng sức chống chịu và tận dụng cơ hội mới.
Theo ông Cường, đây chính là thời điểm hiếm có để Việt Nam bứt phá, tạo sức bật đi lên từ nội lực để thực hiện khát vọng vươn lên. Nếu hành động phù hợp kịp thời, Việt Nam có thể tham gia từ đầu vào những ngành mới nổi, công nghệ cao, trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu thay vì dừng ở khâu gia công, lắp ráp.
“Đó chính là giải pháp để tránh tăng trưởng nóng nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng cao cục bộ, mà là con đường phát triển nhanh, bền vững để đạt được tốc độ tăng trưởng 2 con số, tạo sức bật cho Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045” - ông Cường nói.
Phát biểu tại Diễn đàn, Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc cũng nhấn mạnh, đất nước đang đứng trước ngưỡng cửa trở thành nước phát triển. Để hiện thực hóa mục tiêu đề ra, cần phải đổi mới mô hình tăng trưởng. Mô hình kinh tế mới là mệnh lệnh của thời đại, phải tạo ra động lực tăng trưởng mới, xây dựng từng tế bào của nền kinh tế có tính năng động, sức chống chịu cao…
Cùng với đó, Việt Nam phải làm chủ được nguồn nguyên liệu, làm chủ công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đa dạng mở rộng thị trường, đặc biệt là tham gia bền chặt vào chuỗi giá trị toàn cầu, tiến tới mô hình quản trị hiện đại, sử dụng hiệu quả tiềm năng nguồn lực trong nước. “Việc chủ động hội nhập, phát huy nội lực, vị thế và giá trị trong chuỗi giá trị toàn cầu để gia tăng sức mạnh cho nền kinh tế Việt Nam là hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay” - Phó Thủ tướng nêu rõ.
Gợi mở thêm giải pháp để đạt được mức tăng trưởng cao hai con số và tăng trưởng bền vững trong giai đoạn tới, Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương Nguyễn Thanh Nghị cho rằng cần chú trọng vào 4 định hướng trọng tâm.
Một là, cần làm mới các động lực tăng trưởng kinh tế truyền thống. Theo đó, đối với xuất khẩu, cần phải điều chỉnh chiến lược xuất khẩu, mô hình tăng trưởng xuất khẩu theo hướng nâng cao hơn nữa đóng góp của xuất khẩu cho tăng trưởng một cách bền vững. Đồng thời, chuyển từ gia công, giá trị thấp sang sản phẩm công nghệ cao; nâng mạnh tỷ lệ nội địa hóa để hàng hóa Việt Nam tham gia sâu và ở vị trí cao trong chuỗi giá trị toàn cầu, chuỗi cung ứng chiến lược của các nước có tiềm lực khoa học - công nghệ cao để nâng vị thế doanh nghiệp trong nước.
Đối với đầu tư, cần đa dạng hóa các hình thức huy động, sử dụng nguồn lực; đầu tư công cần trở thành chất xúc tác dẫn dắt, kích hoạt đầu tư tư nhân; thúc đẩy xã hội hóa, thu hút mạnh mẽ nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước; nâng cao hiệu quả đầu tư công.
Bên cạnh đó, cần phát huy, tăng cường các hình thức đầu tư giữa Nhà nước và tư nhân. Nguồn lực Nhà nước cần tập trung ưu tiên cho các lĩnh vực có tính lan tỏa cao trong nền kinh tế. Đồng thời, cần thu hút FDI có chọn lọc, ưu tiên công nghệ nguồn, công nghệ xanh...
Đối với tiêu dùng, cần khai thác thị trường nội địa 100 triệu dân trở thành bệ đỡ vững chắc, mở rộng không gian tiêu dùng, khuyến khích sử dụng hàng Việt chất lượng cao…

Hai là, kiến tạo động lực tăng trưởng mới, trong đó tập trung phát triển và ứng dụng các mô hình kinh tế mới, các ngành kinh tế mới và các không gian phát triển mới để tạo sức bật nội lực cho tăng trưởng kinh tế.
“Phải phát huy được lợi thế, tiềm năng của mỗi mô hình kinh tế mới, thông qua việc thiết kế chính sách đột phá, thậm chí là thí điểm thể chế đặc thù để tạo ra “cú hích” cho nền kinh tế. Làm thế nào để chúng ta không chỉ “đi cùng” xu thế toàn cầu, mà còn phải chủ động “tạo ra” xu thế mới để Việt Nam trở thành điểm đến của sáng tạo và đổi mới” - ông Nghị nhấn mạnh.
Ba là, phát huy nội lực và tăng cường mối liên kết giữa các khu vực kinh tế và giữa các doanh nghiệp. Theo đó, cần có những giải pháp để phát triển nền sản xuất Việt Nam theo hướng hiện đại, tự chủ về nguyên liệu, công nghệ, sản xuất, thị trường, giảm phụ thuộc vào bên ngoài. Đồng thời, tăng cường năng lực sáng tạo, thiết kế; phát triển các ngành sử dụng nhiều công nghệ, có giá trị gia tăng cao và các ngành công nghiệp phát thải carbon thấp…
Cùng với đó, cần có cơ chế, chính sách để hỗ trợ doanh nghiệp lớn trong nước thực sự đóng vai trò dẫn dắt, kết nối và chuyển giao công nghệ, mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; nâng cao năng lực nội tại của doanh nghiệp trong nước, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu…
Bốn là, cần có những giải pháp đồng bộ để kết hợp thúc đẩy mở rộng phạm vi, quy mô gắn với tăng trưởng nhanh giá trị gia tăng ở tất cả các ngành nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ.
Từ góc độ doanh nghiệp - lực lượng chủ lực đảm đương vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước, ông Johnathan Hạnh Nguyễn - Chủ tịch Tập đoàn Liên Thái Bình Dương (IPPG) chia sẻ, cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam hiện nay có đủ khát vọng, năng lực và tầm vóc để đóng góp hiện thực hóa các mục tiêu phát triển của đất nước trong giai đoạn phát triển tới.
Để doanh nghiệp có thể thực hiện được sứ mệnh đó, cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam rất cần sự đồng hành, hỗ trợ và kiến tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh từ Đảng, Nhà nước, Chính phủ và các cơ quan chức năng.
“Khi hệ thống cơ chế, chính sách minh bạch, ổn định và cải cách thể chế thực chất, giảm rào cản thủ tục, tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi, sẽ là nền tảng quan trọng để doanh nghiệp, doanh nhân tiếp tục phát huy vai trò tiên phong, cùng nhau nỗ lực, chung sức xây dựng một nền kinh tế Việt Nam lớn mạnh và tự chủ” - ông Johnathan Hạnh Nguyễn bày tỏ./.