Bảo vệ môi trường: Nền tảng cho phát triển bền vững
Chính trị - Ngày đăng : 06:34, 09/10/2025
Cùng với nỗ lực thực thi chính sách, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và Kiểm toán nhà nước đã tăng cường giám sát, kiểm toán lĩnh vực này, nhằm kịp thời phát hiện, kiến nghị chấn chỉnh những hạn chế, bất cập, phòng ngừa lãng phí trong sử dụng nguồn lực cho BVMT. Quan trọng hơn, công tác này góp phần khắc phục những “lỗ hổng” trong cơ chế, chính sách, hoàn thiện hành lang pháp lý, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về BVMT - một trong những nền tảng trụ cột cho phát triển bền vững đất nước.
Bài 1: Bảo vệ môi trường - Quan điểm xuyên suốt, nhiệm vụ sống còn
BVMT và ứng phó với biến đổi khí hậu là nhiệm vụ sống còn của quốc gia, gắn chặt với mục tiêu phát triển bền vững. Nhận thức ấy được Đảng và Nhà nước kiên định từ rất sớm, song thực tiễn vẫn cho thấy, việc thực thi các chính sách BVMT còn gặp nhiều thách thức, đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ hơn, thực chất hơn của các ngành, địa phương.

Thể chế hóa chủ trương, chính sách thành hành động cụ thể
Ngay từ rất sớm, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của môi trường. Các văn kiện qua nhiều kỳ Đại hội Đảng luôn nhấn mạnh yêu cầu gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với BVMT, coi đây là một trong những định hướng phát triển cơ bản.
Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường” là minh chứng rõ nét, đặt nền móng cho sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy và hành động.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định BVMT là nội dung trọng tâm trong tiến trình phát triển nhanh, bền vững; khẳng định quan điểm phát triển kinh tế phải gắn kết chặt chẽ với BVMT trong từng bước và từng chính sách. Văn kiện Đại hội nhấn mạnh: “Lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống.”
Trên cơ sở quan điểm đó, hệ thống chính sách, pháp luật về BVMT không ngừng được bổ sung, hoàn thiện. Hàng loạt luật chuyên ngành, tiêu chuẩn, quy chuẩn đã được ban hành và sửa đổi để đưa các quy định về BVMT vào cuộc sống. Đặc biệt, Luật BVMT năm 2020 đánh dấu bước tiến lớn, thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy quản lý: Phát triển dựa trên quy luật tự nhiên, không đánh đổi môi trường để lấy tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá.
Tại Chuyên đề kiểm toán hoạt động Quản lý môi trường tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp giai đoạn 2021-2023, KTNN chỉ rõ tình trạng nhức nhối như một số cụm công nghiệp đã thành lập và đi vào hoạt động nhưng chưa hoàn thành công trình hạ tầng BVMT; còn trường hợp doanh nghiệp hoạt động nhưng chưa có hồ sơ về môi trường. Trong khi đó, công tác thẩm định, cấp giấy phép môi trường của cơ quan chức năng còn nhiều thiếu sót…
Tại Luật này, lần đầu tiên vấn đề kiểm toán môi trường được thể chế hóa, trao quyền cho Kiểm toán nhà nước (KTNN) “thực hiện kiểm toán trong lĩnh vực môi trường theo quy định của Luật KTNN và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Theo PGS,TS. Vũ Thanh Ca, chuyên gia trong lĩnh vực môi trường: “Điều này cho thấy sự thay đổi trong tư duy lập pháp và thực thi pháp luật, thể hiện yêu cầu cấp thiết phải tăng cường giám sát lĩnh vực môi trường, hướng tới mục tiêu BVMT tốt hơn.”
Cùng với việc hoàn thiện khung pháp lý, các cơ quan của Quốc hội và KTNN đã không ngừng tăng cường giám sát, kiểm toán lĩnh vực môi trường. Đặc biệt, năm 2025, Quốc hội tiến hành giám sát tối cao chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT kể từ khi Luật BVMT năm 2020 có hiệu lực”, nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách về BVMT.
Với chức năng kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công, thời gian qua, KTNN đã đẩy mạnh thực hiện nhiều cuộc kiểm toán chuyên đề môi trường hoặc lồng ghép nội dung này trong các cuộc kiểm toán thường niên. Điển hình, năm 2024, KTNN triển khai kiểm toán chuyên đề toàn ngành về “Việc quản lý, sử dụng kinh phí BVMT và ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2023”; kiểm toán hoạt động quản lý môi trường tại các khu, cụm công nghiệp giai đoạn 2021-2031; và kiểm toán công tác quản lý, BVMT nước phục vụ sản xuất và cung cấp nước sinh hoạt giai đoạn 2021-2023 tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Đà Nẵng.
Qua kiểm toán, ngoài việc kiến nghị chấn chỉnh, xử lý vi phạm, KTNN còn đề xuất nhiều giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách, góp tiếng nói quan trọng vào công cuộc BVMT - vì sự phát triển bền vững của đất nước.
Còn khoảng cách giữa chính sách và thực tiễn
Kết quả giám sát, kiểm toán cho thấy: Dù hệ thống pháp luật về môi trường đã được bổ sung, hoàn thiện, nhưng việc triển khai thực tế vẫn còn nhiều bất cập. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đôi khi thiếu đồng bộ, chồng chéo, gây khó khăn cho việc áp dụng. Các nội dung về môi trường vẫn phân tán trong nhiều văn bản, thiếu sự thống nhất.
Đoàn giám sát của Quốc hội dẫn chứng: Khoản 1 Điều 31 Luật BVMT quy định báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) do chủ dự án tự thực hiện hoặc thuê đơn vị tư vấn, nhưng lại không có quy định cụ thể về điều kiện của đơn vị tư vấn. Trong khi đó, theo Luật Đầu tư, hoạt động tư vấn lập ĐTM là ngành nghề kinh doanh không có điều kiện - tạo ra “khoảng trống pháp lý” ảnh hưởng tới hiệu quả quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó, nhiều quy định còn mang tính nguyên tắc, thiếu hướng dẫn cụ thể, khiến việc áp dụng gặp khó khăn. Việc ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực BVMT - đặc biệt là với hoạt động tái sử dụng nước thải, xử lý chất thải rắn - chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế tuần hoàn và tiến bộ công nghệ.
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Việt Nga (Đoàn Hải Phòng) chỉ rõ: “Nhiều người dân, chủ nguồn thải vẫn chưa hiểu rõ phải phân loại rác ra sao, trả tiền theo lượng rác thế nào, tập kết rác phân loại ở đâu. Nhiều địa phương còn thiếu quy định về định mức, đơn giá thu gom và xử lý rác thải”.
Trong quá trình thực thi, KTNN cũng chỉ ra tình trạng chồng chéo, lúng túng trong phân cấp nhiệm vụ, gây lãng phí nguồn lực. Qua kiểm toán công tác quản lý, BVMT nước phục vụ sản xuất và cung cấp nước sinh hoạt giai đoạn 2021-2023 tại Hà Nội và một số địa phương, KTNN phát hiện: Phân công trách nhiệm còn bất cập; hệ thống giám sát tài nguyên nước chưa được hoàn thiện; dữ liệu thiếu đồng bộ; việc giám sát chất lượng nước sạch phục vụ sinh hoạt chưa được thực hiện đầy đủ.
Theo KTNN chuyên ngành III, bên cạnh những chuyển biến tích cực, nhận thức và trách nhiệm của một số cơ quan, địa phương về BVMT vẫn chưa cao, thậm chí có tình trạng sử dụng kinh phí môi trường sai mục đích.
Không chỉ vậy, kết quả giám sát còn cho thấy hàng loạt bất cập trong quản lý và sử dụng nguồn lực cho công tác BVMT; nhiều dự án trọng điểm về môi trường chậm trễ, đội vốn, gây lãng phí lớn và để lại hệ lụy dài lâu. Vấn đề này sẽ được Báo Kiểm toán đề cập trong kỳ tiếp theo…/.