Kiểm định chất lượng giáo dục đại học: Đảm bảo “Hoàn thiện - Thực chất - Hội nhập quốc tế”
Xã hội - Ngày đăng : 15:24, 14/10/2025

Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết, khảo sát tại 177 cơ sở giáo dục đại học cho thấy, 170 cơ sở (chiếm 96,3%) đã thành lập đơn vị chuyên trách bảo đảm chất lượng, đáp ứng yêu cầu quan trọng của Quyết định số 78/QĐ-TTg, tạo nền tảng xây dựng hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong (IQA) - trụ cột của quản trị đại học hiện đại theo tinh thần Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
Hiện có 2.637 chương trình đào tạo được kiểm định, gồm 1.941 chương trình theo tiêu chuẩn trong nước và 696 chương trình theo tiêu chuẩn quốc tế, đạt 52,1% tổng số 5.007 lượt ngành đào tạo - vượt xa mục tiêu trung hạn (mục tiêu 35%, trong đó 10% đạt chuẩn quốc tế). Đây là cơ sở quan trọng để triển khai Nghị quyết số 281/NQ-CP về phân tầng và xếp hạng cơ sở giáo dục đại học.
Bảo đảm và kiểm định chất lượng không chỉ là yêu cầu quản lý mà còn là nền tảng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao - yếu tố quyết định để Việt Nam đạt mục tiêu trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và quốc gia phát triển vào năm 2045.
Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc
Bên cạnh đó, tất cả các tổ chức kiểm định đến hạn đều đã được đánh giá định kỳ theo Thông tư số 13/2023/TT-BGDĐT và trên 60% đã tham gia các mạng lưới bảo đảm chất lượng quốc tế hoặc hợp tác song phương, thể hiện bước tiến rõ nét trong hội nhập quốc tế.
Đồng thời, nhận thức của lãnh đạo các trường được nâng cao, đội ngũ giảng viên bảo đảm chất lượng phát triển cả về số lượng và năng lực, đưa hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng đại học tiến gần hơn chuẩn mực quốc tế.
Nhấn mạnh việc nâng cao hiệu quả bảo đảm và kiểm định chất lượng là điều kiện tiên quyết để đổi mới mô hình quản trị, Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng (Bộ Giáo dục và Đào tạo) Huỳnh Văn Chương đề xuất phân loại cơ sở theo mức độ chất lượng để có chính sách phù hợp. Đồng thời, xây dựng Trung tâm phân tích dữ liệu bảo đảm chất lượng quốc gia kết nối với HEMIS, SAHEP để hoạch định chính sách dựa trên dữ liệu; rà soát pháp luật để gắn yêu cầu bảo đảm chất lượng với mở ngành, đầu tư, xếp hạng, tự chủ; thí điểm kiểm định theo nhóm ngành để chuẩn hóa và tiết kiệm chi phí.
Với các trường, nhóm chưa kiểm định cần sớm xây dựng quy trình tự đánh giá; nhóm đã kiểm định cần số hóa hệ thống chất lượng và sử dụng dashboard theo dõi cải tiến; nhóm mạnh nên tham gia kiểm định quốc tế và xếp hạng học thuật. Các tổ chức kiểm định cần tái cấu trúc theo hướng độc lập, minh bạch, chuyên nghiệp, phấn đấu đến năm 2030 có 50% đạt công nhận lẫn nhau (MRA) ở cấp khu vực hoặc quốc tế.
Hướng tới giai đoạn 2026-2030, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc nhấn mạnh ba từ khóa: “Hoàn thiện - Thực chất - Hội nhập quốc tế”. Theo đó, hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng đại học cần tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng chuẩn mực quốc tế; kiểm định phải thực chất, khách quan, không hình thức; đồng thời học hỏi kinh nghiệm quốc tế để xây dựng mô hình phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Trên cơ sở đó, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị các trường rà soát, hoàn thiện hệ thống bảo đảm chất lượng nội bộ, lan tỏa văn hóa chất lượng và liên tục cải tiến. Các trung tâm kiểm định phải giữ vai trò “người gác cổng” chất lượng, hoạt động độc lập, khách quan, minh bạch, chuyên nghiệp.
Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục đóng vai trò hậu kiểm, triển khai Nghị quyết số 71-NQ/TW; Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; cùng các đề án, chiến lược và quy hoạch mạng lưới, hướng tới mục tiêu xây dựng hành lang pháp lý tiên tiến, phù hợp thực tiễn, thúc đẩy phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học./.