Cân đối thu - chi ngân sách nhà nước: Cần những giải pháp bền vững
Ngân hàng - Tín dụng - Ngày đăng : 08:20, 02/05/2019
(BKTO) - Khoảng 10 năm gần đây, Việt Nam luôn duy trì quy mô chi tiêu công ở mức cao trong khi nguồn thu ngân sách không đủ để bù đắp. Do vậy, thâm hụt NSNN thường xuyên ở mức cao và hiện đang ở mức cao nhất trong khu vực. Điều này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng dài hạn, ổn định kinh tế vĩ mô và khả năng chống chọi với các cú sốc của nền kinh tế. Giới chuyên gia đã đề xuất các giải pháp hướng tới chính sách tài khóa bền vững và hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế.
Quy mô thu ngân sáchtrên GDP cao nhưng chưabền vững
Tại Hội thảo quốc gia về Kinh tế Việt Nam năm 2018 và Triển vọng năm 2019 do Trường Đại học Kinh tế Quốc dân mới tổ chức, PGS,TS. Tô Trung Thành - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân - cho biết: Trong những năm gần đây, quy mô thu ngân sách đã giảm đi rõ rệt. Thu ngân sách từ mức gần 30% GDP trong nhiều năm trước đây đã giảm xuống khoảng 26 - 28% GDP trong giai đoạn 2006-2009 và còn hơn 23% GDP trong giai đoạn 2015-2018. Mặc dù vậy, quy mô thu ngân sách trên GDP của Việt Nam vẫn cao so với các quốc gia đang phát triển cũng như các nước ASEAN. Năm 2018, quy mô thu ngân sách trên GDP trung bình của các nước thu nhập thấp chỉ là 15,1%, các nước khu vực châu Á cùng thời gian này là 17,3%.
Theo ông Thành, quy mô thu ngân sách cao sẽ ảnh hưởng đến việc tiết kiệm của khu vực tư nhân, làm giảm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của khu vực này. Không những thế, thuế cao có thể dẫn đến các hành vi gian lận, trốn thuế, gây thất thu thuế. Ngoài ra, quy mô thu ngân sách cao không chỉ khiến Chính phủ có ít không gian để tăng thuế mà còn phải chịu thêm áp lực do giảm thuế.
Riêng về cơ cấu ngân sách, PGS,TS. Tô Trung Thành chỉ ra rằng, trong thu nội địa, thu từ nhà, đất chiếm tỷ lệ lớn. Giai đoạn 2006-2011, nguồn thu này chỉ chiếm tỷ lệ trung bình là 9,6% tổng thu nội địa, giai đoạn 2012-2014 tăng lên trung bình 11,6%. Sang giai đoạn 2016-2018, tỷ lệ này đã lên tới 13,8%. Điều đáng nói ở đây là khoản thu có tính chất một lần là thu từ giao quyền sử dụng đất (chiếm trung bình 8,15% tổng thu ngân sách giai đoạn 2015-2018) lại chiếm tỷ lệ cao nhất. Trong khi đó, thuế từ nhà, đất chỉ chiếm 0,2% tổng thu NSNN. Việc phụ thuộc vào các khoản thu không bền vững như trên sẽ khiến NSNN bị ảnh hưởng.
Chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành đã làm rõ thêm vấn đề này, trước đây, nguồn thu chủ yếu từ thuế đất với 18 - 23% tổng thu NSNN đã bù đắp sự thiếu hụt, nhưng đến nay, nguồn này đã giảm đi nhiều. Để bù đắp sự thiếu hụt này, việc đưa ra thu thuế tài sản được xem là giải pháp thay thế. Tuy nhiên, phương án này đã được cơ quan quản lý đưa ra từ năm 2014 nhưng đến nay vẫn chưa ban hành được. Điều này cho thấy, việc chuyển từ thuế trực thu sang thuế gián thu một cách hợp lý cần phải được xem xét một cách căn cơ.
Chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam Sebastian Eckardt đặc biệt lưu ý: Áp lực thu của Việt Nam là rất lớn khi nguồn thu thuế giảm do các cam kết hội nhập, do giá dầu thế giới giảm và do giảm thuế thu nhập DN từ chính sách ưu đãi. Đây cũng sẽ là vấn đề Việt Nam cần tính tới vào thời điểm này và nhất là thời gian tới, khi các cam kết hội nhập được thực thi toàn diện.
Chính sách bền vững:quan trọng là giải pháp chi!
Về chi ngân sách, PGS,TS. Tô Trung Thành cho hay, chi đầu tư từ NSNN đang theo xu hướng giảm dần. Tỷ trọng chi đầu tư trong tổng chi tiêu công cao nhất là 42% năm 2009 đã giảm xuống còn 32,4% năm 2012 và chỉ đạt hơn 25% vào năm 2018. Mặc dù mức chi này chưa phải là quá thấp so với các quốc gia trong khu vực, tuy nhiên, đối với một quốc gia đang phát triển, nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng vẫn rất lớn như Việt Nam thì việc giảm mạnh chi đầu tư công mà không có nguồn thay thế sẽ gây ra ảnh hưởng tiêu cực về dài hạn.
Bên cạnh đó, chi trả nợ tăng dần lên trong những năm tới có thể ảnh hưởng tới tính bền vững của NSNN bởi những khoản vay từ những năm 1990 bắt đầu tới hạn trả nợ. Hiện nay, mỗi năm số nợ phải trả đã chiếm tỷ lệ 10 - 12% tổng chi NSNN của Việt Nam.
Vấn đề đáng quan ngại trong tổng chi ngân sách là chi thường xuyên - đây cũng là khoản chi lớn nhất. Khoản này liên tục ở mức cao và chiếm khoảng 70% tổng số chi kể từ năm 2008. Tỷ lệ chi lương của Việt Nam trên tổng chi tiêu tương đối cao so với các quốc gia trong khu vực.
Thậm chí, với xu hướng hiện tại, chi lương của Việt Nam có thể dễ dàng vượt mức bình quân của các nước có thu nhập trung bình, đến năm 2020, tỷ lệ này của Việt Nam có thể còn cao hơn các quốc gia có thu nhập cao. Điều này sẽ gây áp lực về tài chính công. Bên cạnh đó, chi tiêu cho quản lý hành chính liên tục tăng cho thấy Việt Nam không đạt được kết quả tốt trong việc cải cách bộ máy hành chính.
Liên quan đến vấn đề này, TS. Võ Trí Thành cho rằng: Việt Nam chi lương cho công chức quá cao nhưng lương của từng công chức lại quá thấp. Bộ máy công chức Việt Nam có thể không lớn nhưng số người hưởng lương từ ngân sách rất lớn. Bên cạnh đó, nước ta còn có tới 6 - 7 triệu người được hưởng trợ cấp xã hội.
Với thực trạng trên, TS. Võ Trí Thành cho rằng, bài toán tổng thể lớn nhất trong chính sách thu - chi của Việt Nam giờ đây là bền vững chứ không phải là giải pháp tình thế. Bền vững không phải chỉ ở thu mà quan trọng hơn là chi. Bền vững còn liên quan đến nợ công, trong đó cần lưu ý đến nợ quốc gia do DN vay nợ nước ngoài. Không chỉ là DNNN vay mà DN tư nhân cũng đã vay nước ngoài, bên cạnh đó còn là nợ chính quyền địa phương. Đã đến lúc cần phải mạnh tay siết chặt kỷ luật ngân sách, có giải pháp mạnh để giảm chi thì mới hy vọng có thể giảm áp lực của ngân sách khi không gian tài khóa đang hẹp lại và tăng khả năng chống đỡ của nền kinh tế trước các cú sốc bất định.
Nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã đề xuất các giải pháp, như: Việt Nam cần cải cách mạnh mẽ chính sách thu, cải cách hệ thống thuế nhằm giảm bớt gánh nặng thuế khóa, tạo nguồn thu ngân sách ổn định và cân bằng cần. Đồng thời, vấn đề trọng tâm là phải giảm chi ngân sách chứ không phải tăng thu, đó là giảm tỷ lệ chi thường xuyên thông qua việc giảm tốc độ tăng biên chế và quỹ lương cho cán bộ, công chức và viên chức của Chính phủ. Bên cạnh đó, cần sửa đổi các quy định về phân cấp ngân sách, hướng tới quản lý NSNN theo kết quả, tăng cường tính kỷ luật, minh bạch và trách nhiệm giải trình về tài chính của địa phương, đặc biệt cẩn trọng với vấn đề vay nợ của chính quyền địa phương cũng như nâng cao hiệu quả đầu tư công...
THÙY ANH
Theo Báo Kiểm toán số 17+18 ra ngày 25-4-2019