Gỡ nút thắt để “tăng tốc” chuyển đổi năng lượng xanh

Kinh tế - Ngày đăng : 14:36, 30/10/2025

(BKTO) - Chuyển đổi năng lượng xanh không chỉ là một xu hướng tất yếu mà còn là yêu cầu sống còn đối với tăng trưởng bền vững và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Do đó, cần cấp bách tháo gỡ những “nút thắt” để đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi năng lượng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu Net Zero mà Việt Nam đã cam kết với cộng đồng quốc tế.
20251030_090840.jpg
Quang cảnh Hội thảo “Chuyển đổi năng lượng xanh nhìn từ Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị”. Ảnh: D.Thiện

Nhiều thách thức trong chuyển đổi năng lượng

Chia sẻ tại Hội thảo “Chuyển đổi năng lượng xanh nhìn từ Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị”, do Tạp chí Nhà đầu tư tổ chức ngày 30/10, PGS,TS. Đặng Trần Thọ - Viện trưởng Viện Công nghệ năng lượng (Đại học Bách khoa Hà Nội) cho biết, trong hơn ba thập kỷ qua, ngành năng lượng đóng vai trò trụ cột trong phát triển kinh tế - xã hội. Giai đoạn 2011-2023, nhu cầu năng lượng tại Việt Nam tăng trung bình 6,5 %/năm, thuộc nhóm cao nhất khu vực châu Á. Sự tăng trưởng mạnh mẽ này phản ánh vai trò của năng lượng như “huyết mạch” của nền kinh tế, nhưng đồng thời cũng đặt ra áp lực lớn lên hệ thống hạ tầng, nguồn cung và an ninh năng lượng quốc gia.

Đặc biệt, cơ cấu năng lượng sơ cấp của Việt Nam vẫn thiên lệch: than chiếm khoảng 49,7%, dầu mỏ và các sản phẩm dầu chiếm 24,7%, khí tự nhiên 6,4%, thủy điện 6,8%, năng lượng tái tạo (NLTT) khoảng 3,3%, sinh khối và chất thải 9,1%.

“Mức độ phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch cao khiến Việt Nam chịu rủi ro kép: vừa đối mặt với biến động giá năng lượng toàn cầu, vừa chịu áp lực giảm phát thải để thực hiện cam kết Net Zero tại COP26” - ông Thọ nhấn mạnh.

Tuy nhiên, theo ông Thọ, Việt Nam cũng là một trong những quốc gia có tiềm năng NLTT lớn nhất Đông Nam Á. Các nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy Việt Nam có thể khai thác hơn 500GW điện gió ngoài khơi, 8,6 kWh/m²/ngày bức xạ mặt trời trung bình và hàng triệu tấn sinh khối, rác thải đô thị có thể quy đổi tương đương 1 - 2GW điện mỗi năm. Các vùng duyên hải miền Trung, Tây Nguyên và Nam Bộ đang trở thành “trục năng lượng mới” của quốc gia nếu được đầu tư đồng bộ vào truyền tải và lưu trữ… Theo đó, tính đến cuối năm 2024, tổng công suất nguồn điện đạt khoảng 82GW, trong đó NLTT chiếm 24GW (điện mặt trời 17GW, gió 6GW).

Dù tỷ trọng NLTT tăng nhanh so với giai đoạn trước năm 2020, song quá trình chuyển đổi năng lượng xanh tại Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều rào cản.

Cụ thể, về thể chế, chính sách, khung pháp lý cho thị trường điện cạnh tranh, cơ chế mua bán điện trực tiếp (DPPA), thị trường tín chỉ carbon và lưu trữ năng lượng vẫn chưa hoàn thiện. Các quy trình phê duyệt dự án còn phức tạp, kéo dài; chính sách thiếu nhất quán giữa các cấp quản lý gây rủi ro cho nhà đầu tư. Báo cáo Vietnam Energy Outlook 2024 của Danish Energy Agency cho thấy, chi phí hành chính chiếm tới 5 - 7 % tổng chi phí dự án NLTT - cao hơn mức trung bình khu vực.

Bên cạnh đó, Việt Nam chưa có quỹ đầu tư xanh quốc gia, cơ chế bảo lãnh rủi ro và chia sẻ lợi nhuận công - tư (PPP) còn hạn chế. Hoạt động cấp tín dụng xanh cho các dự án NLTT vẫn còn nhiều hạn chế, khiến doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính để phát triển các dự án...

Chỉ ra thêm thách thức, TS. Võ Thành Phong - Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương) cho biết, lưới truyền tải, đặc biệt là tại miền Trung và miền Nam, thường xuyên quá tải, cùng với thiếu hệ thống lưu trữ khiến nhiều dự án phải cắt giảm 30 - 40% công suất.

Đặc biệt, theo một số nghiên cứu, để đạt được mục tiêu Net Zero vào năm 2050, Việt Nam cần đầu tư thêm 8 - 10 tỷ USD/năm cho NLTT, hạ tầng và công nghệ lưu trữ - một con số thể hiện thách thức tài chính rất lớn.

Ngoài ra, theo các chuyên gia, năng lực nội địa trong sản xuất thiết bị và phát triển công nghệ năng lượng tiên tiến của Việt Nam còn yếu, dẫn đến khoảng 80% thiết bị NLTT hiện phải nhập khẩu với chi phí lớn. Cùng với đó, nhân lực kỹ thuật chuyên sâu về năng lượng số, công nghệ lưu trữ và quản trị carbon còn thiếu nghiêm trọng cũng gây khó khăn cho sự phát triển mạnh mẽ của lĩnh vực NLTT…

pod02283-1008.jpg
PGS,TS. Đặng Trần Thọ - Viện trưởng Viện Công nghệ năng lượng, Đại học Bách khoa Hà Nội phát biểu tại Hội thảo. Ảnh: D.Thiện

Đẩy mạnh chuyển đổi xanh để đảm bảo an ninh năng lượng

Các chuyên gia đánh giá, chuyển đổi năng lượng xanh là yêu cầu tất yếu trong tiến trình phát triển bền vững và thực hiện mục tiêu giảm phát thải của Việt Nam. Tại Nghị quyết số 70-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” cũng đã xác định rõ định hướng chiến lược: “Phát triển năng lượng phải gắn với chuyển đổi xanh, đổi mới sáng tạo và kinh tế tuần hoàn, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, thực hiện cam kết Net Zero vào năm 2050”.

Trong bối cảnh đó, để đạt được các mục tiêu chiến lược về an ninh năng lượng, giảm phát thải, cũng như tháo gỡ những điểm nghẽn hiện hữu, PGS,TS. Đặng Trần Thọ cho rằng, trước hết, cần củng cố khung pháp lý đồng bộ, minh bạch. Theo đó, cần có một văn bản pháp lý ở cấp luật về vấn đề năng lượng xanh và hiệu quả năng lượng, trong đó tích hợp các cơ chế quản lý thị trường điện cạnh tranh, hợp đồng mua bán điện trực tiếp (DPPA), thị trường carbon và lưu trữ năng lượng; cũng như quy định rõ các tiêu chí phân loại “dự án năng lượng xanh” nhằm đảm bảo tính thống nhất. Quy hoạch điện VIII (điều chỉnh năm 2024) cũng nên được cập nhật định kỳ 3 - 5 năm, bổ sung cơ chế linh hoạt cho chuyển dịch nguồn và vùng.

Song song với đó, cần đổi mới cơ chế ưu đãi, khuyến khích đầu tư, theo hướng chuyển từ cơ chế giá FIT cố định sang cơ chế đấu thầu minh bạch, có trần giá và ưu tiên công nghệ nội địa hóa. Thiết lập hệ thống thuế carbon và tín chỉ carbon nội địa theo hướng khuyến khích doanh nghiệp tiết giảm phát thải và tái đầu tư vào công nghệ sạch. 

Đặc biệt, cần hiện đại hóa lưới điện, đầu tư lưới điện thông minh, kết nối linh hoạt giữa nguồn phân tán và hệ thống quốc gia. Đồng thời, phát triển các dự án lưu trữ điện năng quy mô lớn để ổn định phụ tải và hạn chế việc phải cắt giảm công suất NLTT.

Nhấn mạnh đến vai trò của chính sách tài khoá, chuyên gia lĩnh vực thuế Nguyễn Văn Phụng đề xuất, cần xây dựng các chính sách thuế phù hợp nhằm khuyến khích, thúc đẩy chuyển đổi năng lượng xanh. Trong đó, chính sách thuế có thể xây dựng dựa trên sự phân loại các trường hợp chuyển đổi năng lượng xanh, như: (i) Nhóm tăng nguồn cung cấp mới là năng lượng xanh do thực hiện các dự án đầu tư phát triển các dự án mới; (ii) Nhóm tiết kiệm sử dụng năng lượng, gồm các cơ sở sản xuất kinh doanh đang sử dụng năng lượng hóa thạch hoặc đang mua điện của ngành điện thực hiện các biện pháp sử dụng tiết kiệm năng lượng; (iii) Nhóm các cơ sở sản xuất kinh doanh, hộ gia đình tận dụng mặt bằng hiện có để đầu tư hệ thống điện mái nhà tự sản xuất, tự tiêu dùng, hoặc có thể bán lượng năng lượng sạch cho ngành điện.

Từ góc độ doanh nghiệp trong ngành, ông Nguyễn Tài Anh - Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) kiến nghị, Chính phủ và bộ ngành chức năng sớm hoàn thiện các quy định, hướng dẫn, khung pháp lý và bộ tiêu chuẩn kỹ thuật cho các công nghệ năng lượng mới, như: điện gió ngoài khơi, lưu trữ năng lượng, công nghệ hydrogen, amoniac, biomass, thu hồi và lưu trữ carbon.

Sớm triển khai nghiên cứu, quy hoạch và có cơ chế chính sách hỗ trợ đối với các vùng nhiên liệu biomass, chuỗi cung ứng nhiên liệu amoniac/ biomass…, nhằm đáp ứng lộ trình chuyển đổi nhiên liệu sạch cho các nhà máy nhiệt điện đốt than theo định hướng của Chính phủ. Đồng thời, hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trường carbon.

Đối với các địa phương, cần hỗ trợ quy hoạch không gian, bố trí quỹ đất cho phát triển nguồn và lưới điện; phối hợp trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng.

Về phía cơ quan quản lý nhà nước, ông Trần Hoài Trang - Phó Cục trưởng Cục Điện lực, Bộ Công Thương cho biết, Bộ đang xây dựng và hoàn thiện Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về các cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026-2030.

“Nghị quyết này được ban hành sẽ tạo một hành lang pháp lý thông thoáng, thúc đẩy phát triển các dự án nguồn điện, lưới điện nhanh chóng, đáp ứng được nhu cầu phụ tải của hệ thống điện trong bối cảnh đất nước đang vươn mình với mục tiêu tăng trưởng mỗi năm hai con số trong giai đoạn tới” - ông Trang nói./.

TUẤN MINH