Tăng trưởng kinh tế: Dấu ấn nhiệm kỳ và khát vọng tương lai
Chính trị - Ngày đăng : 11:43, 06/11/2025

Bài 1: Từ tư tưởng Hồ Chí Minh đến chủ trương của Đảng
Phát triển kinh tế luôn giữ vai trò trung tâm trong sự nghiệp cách mạng của Đảng. Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế vì hạnh phúc nhân dân, Đảng ta không ngừng đổi mới tư duy, chuyển đổi mô hình tăng trưởng phù hợp với thực tiễn đất nước qua từng giai đoạn. Đặc biệt, định hướng chiến lược - chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng sang chiều sâu - đã mở đường cho nền kinh tế phát triển bền vững, tự chủ và hội nhập sâu rộng.
Tư tưởng “soi đường” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu nhiều tư tưởng đổi mới sâu sắc về phát triển kinh tế, mang giá trị nhân văn lớn lao. Theo Người, mục tiêu nâng cao đời sống nhân dân là nền tảng để hoạch định đường lối, kế hoạch và tổ chức sản xuất, qua đó phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Ngay từ buổi đầu xây dựng chế độ mới, Người đã chủ trương: “Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình... Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc.” Người định hướng con đường Việt Nam phải đi là “con đường công nghiệp hóa nước nhà”, mở cửa hợp tác quốc tế để kiến thiết quốc gia, nâng cao đời sống nhân dân.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn kinh tế phát triển nhanh, mạnh, vững chắc phải biết sử dụng hợp lý các động lực như: Thực hiện công bằng xã hội; chính sách tiền lương, thưởng hợp lý; khoán, tiết kiệm; huy động nội lực; cải cách hành chính; công bằng trong lưu thông, phân phối. Nhà nước giữ vai trò trọng yếu trong việc xây dựng cơ chế, chính sách, xác lập và duy trì nguyên tắc quản lý kinh tế, đồng thời tạo các “đòn bẩy” khuyến khích phát triển.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Người chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần: “Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân; sở hữu của hợp tác xã là sở hữu tập thể của nhân dân lao động; sở hữu của người lao động riêng lẻ; và một phần tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản.” Theo TS. Trần Thị Huyền (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nền kinh tế nhiều thành phần với các hình thức sở hữu khác nhau là tất yếu, tồn tại lâu dài, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Đó là chỗ bắt đầu đi của chúng ta.... Nhưng công nghiệp hóa XHCN vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (Trích bài viết “Con đường phía trước” 1960)
Trao đổi với Báo Kiểm toán, Thiếu tướng Nguyễn Văn Tín - nguyên Tổng Cục trưởng Tổng cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam - khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin chính là nền tảng tư tưởng gốc, là kim chỉ nam cho việc hoạch định đường lối phát triển kinh tế. Muốn phát triển kinh tế đúng hướng, muốn đạt tới thành công, mọi chủ trương, đường lối của Đảng đều phải dựa trên cơ sở lý luận nền tảng ấy.”
Các nhà nghiên cứu cũng thống nhất rằng: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế chứa đựng tư duy mới, hiện đại, khoa học và cách mạng; có giá trị định hướng sâu sắc, mang ý nghĩa thời sự lớn đối với tiến trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Tiếp nối tư tưởng Hồ Chí Minh
Kế thừa tư tưởng của Người, tiếp nối kỳ vọng và khát vọng về một Việt Nam hùng cường, sánh vai cùng các cường quốc năm châu, Đảng và Nhà nước ta đang hiện thực hóa mong mỏi đó bằng công cuộc đổi mới mạnh mẽ.
Theo Thiếu tướng Nguyễn Văn Tín, lịch sử các kỳ Đại hội Đảng đã cho thấy: Đổi mới mô hình tăng trưởng là chủ trương lớn, phản ánh tư duy đột phá và tầm nhìn chiến lược của Đảng - luôn được điều chỉnh, phát triển qua từng giai đoạn để phù hợp thực tiễn đất nước.
Ông dẫn chứng: Đại hội Đảng III (1960) đặt ưu tiên phát triển công nghiệp nặng song song với nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đến Đại hội IV (1976) đã điều chỉnh thành phát triển công nghiệp nặng hợp lý, trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Từ Đại hội V (1982) đến Đại hội VII (1991), nông nghiệp được coi là trọng tâm. Đặc biệt, Đại hội VI (1986) là bước ngoặt lớn - khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới tư duy kinh tế là trọng điểm: Thừa nhận kinh tế thị trường, thực hiện cơ chế hạch toán kinh tế XHCN. Nhờ đó, Việt Nam từng bước thoát khỏi đói nghèo, đảm bảo an ninh lương thực và trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Tiếp đó, các Đại hội VIII (1996), IX (2001) và X (2006) xác định bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển mô hình tăng trưởng theo chiều rộng - dựa nhiều vào khai thác tài nguyên, lao động giá rẻ và vốn đầu tư nước ngoài.
Đến Đại hội XI (2011), Đảng ta nêu rõ cần đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng kết hợp hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu. Đại hội XII (2016) nhấn mạnh, phát triển hài hòa nhưng chú trọng hơn về chiều sâu. Ba kỳ Đại hội liên tiếp (X-XII) đã đưa Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập trung bình và hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Tuy nhiên, sau hơn 35 năm Đổi mới, các động lực truyền thống của nền kinh tế đã tới giới hạn; tốc độ tăng trưởng chậm lại, môi trường ô nhiễm, tài nguyên suy kiệt, nguy cơ tụt hậu hiển hiện. Thực tế đó đặt ra yêu cầu cấp bách phải cải cách mô hình tăng trưởng.
Đại hội XIII (2021) vì thế đã xác định phải chuyển biến căn bản mô hình tăng trưởng, từ phát triển theo chiều rộng sang chiều sâu - dựa vào sử dụng hiệu quả nguồn lực, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV tiếp tục khẳng định định hướng ấy, nhấn mạnh phát triển dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số, với ý chí mạnh mẽ hơn, quyết tâm sắt đá hơn, hành động quyết liệt hơn.
Thiếu tướng Nguyễn Văn Tín nhận định: “Nếu Đại hội XII chúng ta mới bước đầu chuyển dịch sang chiều sâu, Đại hội XIII xác định phải sâu, thì đến Đại hội XIV phải quyết liệt, tăng tốc, đột phá. Đó là minh chứng cho trí tuệ của Đảng ngày càng vươn tầm. Đất nước ta cũng đã hội tụ đủ điều kiện khách quan và chủ quan để bước vào giai đoạn phát triển bền vững.”
Tiếp nối tư tưởng “soi đường” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta kiên định hoạch định đường lối phát triển kinh tế khoa học, cách mạng, hiện đại - nhằm hiện thực hóa khát vọng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Việc chú trọng tăng trưởng theo chiều sâu không chỉ là yêu cầu tất yếu của thời đại, mà còn là hướng đi chiến lược, mở đường và dẫn lối cho sự phát triển vững chắc của Việt Nam./.
Bài 2: Khi Nghị quyết của Đảng dẫn lối phát triển kinh tế