Đến năm 2030, tỷ lệ nghèo đa chiều cả nước giảm từ 1 đến 1,5%/năm
Xã hội - Ngày đăng : 09:04, 25/11/2025

Tối 24/11, tiếp tục chương trình Phiên họp thứ 51, Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi (MN) đến năm 2035.
Báo cáo tại Phiên họp, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng - cho biết, để quản lý thống nhất, hiệu quả, thực chất và bền vũng hơn, khắc phục tình trạng chống chéo, phân tán nguồn lực, trùng lặp nhiệm vụ và manh mún chính sách trong các CTMTQG, Chính phủ xây dựng Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư CTMTQG xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và MN giai đoạn 2026-2035 trên cơ sở tích hợp 3 CTMTQG xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và MN giai đoạn 2021-2025.
Theo Bộ trưởng Trần Đức Thắng, việc hợp nhất 3 CTMTQG có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu của Đảng, Nhà nước làm cho dân giàu, nước mạnh, người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
“Việc tích hợp thành một Chương trình không làm giảm đi các chính sách mà giúp tập trung hơn vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi trong thời gian tới” - Bộ trưởng nêu rõ.
Giai đoạn 2021-2025, CTMTQG giảm nghèo bền vững đã có 4/5 chỉ tiêu đạt và vượt mục tiêu do Quốc hội và Chính phủ giao, cụ thể: 2/5 chỉ tiêu vượt mục tiêu (Tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo; Số lượng xã thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn), 2/5 chỉ tiêu đạt mục tiêu (Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều; Tỷ lệ hộ nghèo DTTS), 1/5 chỉ tiêu chưa đạt (Số huyện nghèo thoát nghèo).
Theo Tờ trình của Chính phủ, Chương trình thực hiện trong 10 năm, giai đoạn 2026- 2035, chia 2 giai đoạn: Giai đoạn I (2026-2030) và Giai đoạn II (2031-2035).
Mục tiêu tổng quát của Chương trình là xây dựng nông thôn mới hiện đại, thực chất, gắn với đô thị hóa và thích ứng biến đổi khí hậu; phát triển kinh tế nông thôn theo hướng xanh, tuần hoàn, sinh thái gắn với tái cơ cấu nông nghiệp, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo; phát huy vai trò chủ thể của người dân, cộng đồng và các thành phần kinh tế; bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội, nhất là vùng chiến lược, biên giới, hải đảo.
Thực hiện giảm nghèo đa chiều, bao trùm và bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, bình đẳng giới, nâng cao thu nhập, chất lượng sống và khả năng tiếp cận dịch vụ cơ bản cho người dân. Phát triển toàn diện khu vực vùng đồng bào DTTS và MN; thu hẹp chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, nhóm dân cư, nhất là vùng dân tộc thiểu số và miền núi so với vùng khác; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các DTTS.

Về mục tiêu cụ thể, Chương trình xác định, đến năm 2030: Thu nhập bình quân của người dân nông thôn năm 2030 phấn đấu tăng gấp 2,5-3 lần so với năm 2020; trong đó, thu nhập bình quân của người DTTS bằng 1/2 bình quân chung của cả nước.
Tỷ lệ nghèo đa chiều cả nước duy trì mức giảm từ 1 đến 1,5%/năm, phấn đấu tỷ lệ hộ nghèo đa chiều vùng DTTS và MN xuống dưới 10%, tỷ lệ nghèo đa chiều ở xã nghèo giảm ít nhất 3%/năm. Phấn đấu 100% số xã nghèo trên cả nước thoát khỏi tình trạng nghèo; vùng đồng bào DTTS và MN cơ bản không còn các xã, thôn đặc biệt khó khăn;
Phấn đấu có khoảng 65% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; có khoảng 10% số xã đạt chuẩn nông thôn mới được công nhận xã đạt nông thôn mới hiện đại theo khung thí điểm của trung ương và các tiêu chí cụ thể do UBND cấp tỉnh ban hành;
Phấn đấu cả nước có khoảng 04-05 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới theo Bộ tiêu chí giai đoạn 2026-2030;
Hằng năm thu hút 3% lao động nông thôn vùng đồng bào DTTS và MN sang làm các ngành, nghề: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ. Có 40% trở lên lao động người DTTS biết làm các ngành, nghề: Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ;
Phấn đấu có 80% số hộ nông dân người DTTS làm kinh tế nông - lâm nghiệp hàng hóa. Trên 85% số xã, thôn vùng đồng bào DTTS và miền núi có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu bảo đảm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và đời sống của người dân;
Cơ bản hoàn thành chỉ tiêu đã đề ra trong Mục tiêu quốc gia về phát triển bền vũng đến năm 2030. Trong đó, ưu tiên giải quyết cơ bản một số vấn đề bức thiết, quan trọng trên địa bàn gồm: Quy hoạch, sắp xếp, bố trí, ổn định dân cự ở những nơi cần thiết; Bảo đảm đủ hạ tầng thiết yếu, đặc biệt là cơ sở vật chất các đơn vị sự nghiệp thuộc lĩnh vực dân tộc, hệ thống các trường, lớp học để đáp ứng mục tiêu dạy và học miễn phí 2 buổi/ngày; 100% người DTTS, người nghèo có bảo hiểm y tế và được tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản miễn phí.
Đến năm 2035, phấn đấu thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn tăng ít nhất 1,6 lần so với năm 2030; thu nhập bình quân của người DTTS bằng 2/3 bình quân chung của cả nước.
Tỷ lệ nghèo đa chiều cả nước duy trì mức giảm từ 1 đến 1,5%/năm theo chuẩn nghèo giai đoạn 2031-2035.
Phấn đấu giảm ít nhất 50% số lượng xã, thôn, bản khó khăn trên địa bàn vùng đồng bào DTTS và MN; 4-5 tỉnh, thành phố vùng đồng bào DTTS và MN không còn xã, thôn bản khó khăn.
Phấn đấu có khoảng 85% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, có khoảng 30% số xã đạt chuẩn nông thôn mới được công nhận xã đạt nông thôn mới hiện đại theo khung của trung ương và các tiêu chí cụ thể do UBND cấp tỉnh ban hành; cả nước khoảng 10-12 tỉnh, thành phố được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới; có 4-5 tỉnh, thành phố đạt nông thôn mới hiện đại.