Rơm rạ: Gánh nặng môi trường hay “mỏ vàng” kinh tế xanh?

Kinh tế - Ngày đăng : 16:40, 27/11/2025

(BKTO) - Không riêng Việt Nam, nhiều quốc gia trong khu vực cũng loay hoay trước bài toán xử lý rơm rạ theo hướng xanh và bền vững. Gần 100 triệu tấn rơm rạ mỗi năm ở Tiểu vùng sông Mekong đang đứng trước ngã rẽ: Tiếp tục là gánh nặng môi trường hay trở thành “mỏ vàng” kinh tế xanh?
13-anh-2-1-.jpeg
Quản lý rơm rạ bền vững là trụ cột quan trọng để Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao vùng ĐBSCL đạt mục tiêu giảm phát thải. Ảnh: ST

Rơm rạ giàu giá trị kinh tế nhưng thiếu khung chính sách

Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường - ông Lê Đức Thịnh - cho biết, mỗi năm Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) phát sinh khoảng 25-28 triệu tấn rơm rạ. Tuy nhiên, chỉ 20-30% lượng rơm rạ được thu gom, phần còn lại bị đốt tại ruộng, gây ô nhiễm không khí, thoái hóa đất và phát thải khí nhà kính.

Trong bối cảnh ĐBSCL đang đẩy mạnh triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp và cam kết Net Zero đến năm 2050, quản lý rơm rạ không chỉ là câu chuyện kỹ thuật thuần túy mà đã trở thành một trụ cột chiến lược trong chuyển đổi xanh ngành lúa gạo. Nếu bài toán rơm rạ không được giải quyết thấu đáo, mục tiêu giảm phát thải và nâng cấp chuỗi giá trị lúa gạo sẽ rất khó đạt được.

Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam (VIETRISA) - ông Lê Thanh Tùng - nhấn mạnh, quản lý rơm rạ bền vững là trụ cột quan trọng để Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao vùng ĐBSCL đạt mục tiêu giảm phát thải. Đây không chỉ là yêu cầu kỹ thuật, mà còn là cơ hội kinh tế lớn cho nông dân và doanh nghiệp.

Trưởng Đại diện Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI) tại Việt Nam - TS. Robert Caudwell - cho biết, tại nhiều quốc gia châu Á, rơm rạ được chuyển hóa thành phân compost, thức ăn gia súc, nấm rơm… vừa giảm phát thải và ô nhiễm không khí, vừa tạo nguồn thu mới cho nông dân.

Theo Chủ tịch Tập đoàn Nông nghiệp Lộc Trời Huỳnh Văn Thòn, từ chỗ được xem là vật cản trở sản xuất, khó xử lý sau thu hoạch, giờ đây rơm rạ được coi là sản phẩm có giá trị khi có đầu tư công nghệ vào khâu thu gom và chế biến. “Chúng tôi đã từng bước đầu tư vào chế biến rơm rạ, từ chế biến nấm rơm đến hợp tác giải quyết các phế phẩm từ gạo xay xát với trấu nghiền để ra nhựa sinh học” - ông Thòn dẫn chứng, đồng thời cho biết: Thu nhập từ rơm rạ không chỉ giúp nông dân bù đắp chi phí sản xuất, mà còn là động lực khuyến khích họ duy trì canh tác lúa trong bối cảnh người trồng lúa đang được giao trọng trách bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đồng thời đóng góp vào vị thế của Việt Nam trên thị trường lúa gạo quốc tế.

Đề xuất lộ trình hành động: Xác lập địa vị pháp lý cho rơm là tài nguyên sinh khối, ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia, ưu đãi tín dụng, phát triển logistics sinh khối, tích hợp cơ chế carbon với hệ thống MRV, chuyển đổi số và đẩy mạnh nghiên cứu công nghệ.

Nhóm nghiên cứu IRRI và Đại học Cần Thơ

Từ kết quả nghiên cứu toàn diện đầu tiên về chuỗi giá trị rơm rạ tại ĐBSCL, TS. Nguyễn Hồng Tín - đại diện nhóm nghiên cứu Đại học Cần Thơ và IRRI - cho hay, cuộn rơm gia công hoặc ủ phân rơm có thể mang lại lợi nhuận trung bình 2.500 đồng/cuộn. Nếu thương lái mua cuộn và bán rơm, lợi nhuận có thể đạt 3.600 đồng/cuộn. Trường hợp thương lái mua và bán rơm cuộn sẵn, lợi nhuận tăng lên 4.800 đồng/cuộn. Đặc biệt, nếu rơm được tận dụng để trồng nấm, trung bình mỗi cuộn rơm có thể đạt lợi nhuận 37.500 đồng; lấy rơm trồng màu lợi nhuận 34.200 đồng/cuộn; phục vụ chăn nuôi lợi nhuận khoảng 7.700 đồng/cuộn.

“Nếu khai thác hiệu quả 4 hình thức: Trồng nấm rơm kết hợp ủ, chăn nuôi và trồng màu, chuỗi giá trị rơm rạ tại ĐBSCL có thể đạt hơn 6.600 tỷ đồng/năm” - ông Tín nhấn mạnh.

Tuy nhiên, theo nhóm nghiên cứu, chuỗi giá trị rơm rạ đang thiếu khung chính sách và cơ chế hỗ trợ. Khoảng trống lớn nằm ở việc rơm rạ vẫn bị xem là phụ phẩm, thiếu tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia và hạ tầng logistics chuyên dụng. Hơn nữa, hiện nay không có sàn giao dịch chính thức cho rơm rạ, thiếu cơ chế hóa đơn/thuế và tín dụng ưu đãi. Chính sách để giảm đốt rơm rạ còn thiếu, chưa tích hợp vào cơ chế carbon với quy trình đo đạc - báo cáo - thẩm định (MRV) rõ ràng. Mặt khác, chuỗi giá trị rơm rạ vẫn chưa có chuẩn an toàn lao động, thiếu thống kê chính thức và bộ chỉ số theo dõi cấp tỉnh.

Hoàn thiện khung pháp lý, tích hợp rơm rạ vào tín chỉ carbon

Kinh nghiệm từ Campuchia cho thấy, từ một quốc gia có khoảng 10 triệu tấn rơm rạ mỗi năm, trong đó 3 triệu tấn bị đốt bỏ ngoài đồng, nước này đã xây dựng mô hình sản xuất phân compost cơ giới hóa. Chiến lược được xây dựng trên 9 trụ cột, từ nâng cao nhận thức cộng đồng, chuyển giao các gói công nghệ đa dạng, đến thiết kế các chương trình hỗ trợ tài chính và xây dựng khung chính sách phù hợp.

Từ thực tiễn Việt Nam, ông Lê Đức Thịnh khuyến nghị hoàn thiện thể chế và khung pháp lý để công nhận rơm rạ là tài nguyên sinh khối, đồng thời ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về thu gom, bảo quản, vận chuyển, tái sử dụng… tạo nền tảng pháp lý cho thị trường rơm rạ phát triển bền vững.

Song song với đó, tổ chức lại chuỗi giá trị với vai trò trung tâm của hợp tác xã. Hợp tác xã không chỉ cung cấp dịch vụ cơ giới hóa thu gom rơm rạ, tổ chức điểm tập kết mà còn là cầu nối liên kết với doanh nghiệp chế biến phân hữu cơ, biochar, viên nén sinh khối và các sản phẩm giá trị gia tăng khác, giúp hình thành nguồn cung ổn định và chia sẻ giá trị công bằng hơn với nông dân.

Đặc biệt, phải huy động nguồn lực tài chính và tích hợp cơ chế carbon, tận dụng gói tín dụng chuỗi, cơ chế hỗ trợ liên kết theo Nghị định số 98/NĐ-CP, các quỹ tín dụng và ODA; sớm xây dựng hệ thống MRV cho rơm rạ, tích hợp vào cơ chế tín chỉ carbon, từ đó tạo động lực kinh tế rõ rệt cho người dân và doanh nghiệp tham gia mô hình bền vững.

Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp đang bước vào giai đoạn tăng tốc. Chuyển đổi rơm rạ từ phụ phẩm bị đốt bỏ thành tài nguyên xanh không chỉ góp phần thực hiện cam kết Net Zero của Việt Nam, mà còn mở ra hướng đi mới cho ngành lúa gạo, tăng giá trị, nâng cao thu nhập cho nông dân. Đây cũng chính là động lực để vựa lúa lớn nhất cả nước tiến tới nền nông nghiệp hiện đại, bền vững trong tương lai.

Giới chuyên gia khẳng định, kịch bản đốt bỏ rơm rạ cần được thay thế bằng một chuỗi giá trị khép kín, trong đó rơm rạ được thu gom, chế biến, tái sử dụng và được định giá đúng như một loại tài nguyên sinh khối. Hơn 100 triệu tấn rơm rạ mỗi năm ở Tiểu vùng sông Mekong, nếu được quản lý theo hướng kinh tế tuần hoàn, sẽ là nguồn nguyên liệu đầu vào quan trọng cho các ngành sản xuất phân hữu cơ, vật liệu sinh học, viên nén năng lượng, chăn nuôi, trồng nấm…; đồng thời là “kho” tín chỉ carbon tiềm năng gắn với các chương trình giảm phát thải của khu vực./.

HỒNG NHUNG