Trách nhiệm phối hợp của Kiểm toán nhà nước trong hoạt động giám sát
Chính trị - Ngày đăng : 09:12, 11/12/2025

Cụ thể, tại Điều 9, Luật quy định: Chủ thể giám sát phối hợp với các chủ thể giám sát khác và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan thanh tra, kiểm toán, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khác trong xây dựng chương trình, kế hoạch, nội dung giám sát và triển khai thực hiện hoạt động giám sát để tránh trùng lặp, nâng cao hiệu quả giám sát.
Trong quá trình thực hiện hoạt động giám sát, nếu phát hiện bất cập, hạn chế trong chính sách, pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật mà thuộc thẩm quyền, lĩnh vực phụ trách của chủ thể giám sát khác thì có trách nhiệm kịp thời thông tin đến chủ thể giám sát đó để phối hợp giám sát.
Cơ quan thanh tra, kiểm toán và cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khác có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung giám sát khi có yêu cầu của chủ thể giám sát, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của thông tin, tài liệu mà mình cung cấp. Thông tin, tài liệu phải được cung cấp trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường hợp thông tin, tài liệu phức tạp, cần thời gian tổng hợp thì thời hạn cung cấp có thể dài hơn nhưng không quá 15 ngày.
Cơ quan thanh tra, kiểm toán và cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khác có trách nhiệm cử thành viên tham gia hoạt động giám sát khi có đề nghị, yêu cầu của chủ thể giám sát.
Tại Điều 43 về ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số trong hoạt động giám sát, Luật cũng quy định: Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm ứng dụng công nghệ và đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động giám sát; bảo đảm sự liên thông, chia sẻ dữ liệu giám sát giữa các chủ thể giám sát, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan thanh tra, kiểm toán và cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khác có trách nhiệm tăng cường ứng dụng công nghệ và đẩy mạnh chuyển đổi số để chia sẻ dữ liệu dùng chung, tạo điều kiện cho các chủ thể giám sát tiếp cận thông tin, tài liệu về hoạt động thanh tra, kiểm toán và các thông tin khác có liên quan để phục vụ hoạt động giám sát.

Chủ nhiệm Ủy ban Dân nguyện và Giám sát của Quốc hội Dương Thanh Bình cho biết, qua thảo luận, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định xây dựng cơ chế chia sẻ dữ liệu giữa hoạt động giám sát với hoạt động thanh tra, kiểm toán; có ý kiến đề nghị bổ sung quy trình 3 bước trong việc phối hợp để tránh chồng chéo.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo rà soát, nghiên cứu, bổ sung quy định cụ thể về cơ chế phối hợp, chia sẻ dữ liệu giữa hoạt động giám sát với hoạt động thanh tra, kiểm toán trong các nghị quyết quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật - ông Bình báo cáo.
Ông Dương Thanh Bình cũng cho hay, có ý kiến đề nghị không quy định Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức đoàn giám sát để tiến hành giám sát chuyên đề, chỉ tập trung hoạt động này tại Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội.
Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu rõ, qua tổng kết thực tiễn thi hành Luật hiện hành cho thấy, việc tổ chức Đoàn giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội để tiến hành giám sát chuyên đề đã đạt nhiều kết quả rất tích cực, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của thực tiễn, nguyện vọng của cử tri và nhân dân. Đặc biệt là đối với những chuyên đề lớn, phạm vi rộng, phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực…
Trong quá trình chỉnh lý, các ý kiến đều cơ bản nhất trí tiếp tục kế thừa quy định của Luật hiện hành về nội dung này. Bên cạnh đó, Dự thảo Luật đã bổ sung quy định Quốc hội có thể giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội tổ chức giám sát một số chuyên đề trong chương trình giám sát. Do đó, đề nghị Quốc hội cho giữ nguyên như quy định của Dự thảo Luật.
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (sửa đổi) gồm 5 Chương, 45 Điều; có hiệu lực thi hành từ ngày 01/3/2026.