Các yếu tố tác động tới hiệu quả kiểm toán hoạt động
Kiểm toán - Ngày đăng : 13:36, 11/12/2025

Tác động của kiểm toán hoạt động là một quá trình liên tục
Theo Kirkhart (2000), tác động của các hoạt động đánh giá hay kiểm toán không chỉ xuất hiện sau khi báo cáo được công bố mà có thể hình thành ngay trong quá trình triển khai. Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, các hoạt động trao đổi, giải trình và tương tác giữa kiểm toán viên với lãnh đạo đơn vị được kiểm toán đã tạo ra những thay đổi nhất định trong hành vi quản lý, trong cách tiếp cận vấn đề cũng như trong mối quan hệ giữa các bên liên quan. Điều này cho thấy tác động của KTHĐ không chỉ giới hạn ở sản phẩm cuối cùng mà là một quá trình tác động liên tục, đan xen giữa các giai đoạn triển khai, công bố, phản hồi và theo dõi kết quả kiểm toán.
Tác động của KTHĐ có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, phản ánh cả những thay đổi cụ thể trong chính sách và quy trình quản lý lẫn những ảnh hưởng sâu hơn đến nhận thức, văn hóa tổ chức và trách nhiệm giải trình. Những tác động này có thể xuất hiện ngay trong quá trình kiểm toán, tại thời điểm trao đổi kết quả hoặc sau một khoảng thời gian dài kể từ khi báo cáo kiểm toán được công bố. Đặc biệt, không phải mọi tác động đều có thể đo lường trực tiếp. Tác động nhận thức - vốn thường diễn ra thầm lặng, kéo dài - chịu ảnh hưởng bởi chuỗi quan hệ nhân quả phức tạp giữa hoạt động kiểm toán và kết quả cải thiện quản trị công.
Bên cạnh đó, tác động của KTHĐ có thể là mong muốn hoặc không mong muốn, tích cực hoặc tiêu cực, tùy thuộc vào phản ứng của đơn vị được kiểm toán và bối cảnh thể chế. Ba dạng tác động chủ yếu gồm: Tác động thực tiễn, tác động nhận thức và tác động biểu tượng. Các dạng tác động này không tồn tại độc lập mà thường tương tác và chuyển hóa lẫn nhau. Trong đó, tác động nhận thức được xem là mắt xích trung gian quan trọng, tạo tiền đề cho tác động thực tiễn thông qua việc thúc đẩy quá trình học hỏi, nâng cao hiểu biết và hình thành các cam kết thay đổi của tổ chức được kiểm toán.
Kết quả nghiên cứu thực nghiệm tại Na Uy, Canada và Bỉ cho thấy mức độ tác động nhận thức cao là điều kiện cần để hình thành tác động công cụ, tức là các thay đổi cụ thể trong quy trình, cơ chế và chính sách.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm toán hoạt động
Tổng quan các nghiên cứu quốc tế cho thấy hiệu quả của KTHĐ chịu ảnh hưởng của ba nhóm nhân tố chính.
Nhóm nhân tố hành vi và nhận thức: Nhóm này tập trung vào đặc điểm của tổ chức được kiểm toán và mức độ trưởng thành của văn hóa học hỏi trong khu vực công. Mức độ hợp tác, sự cởi mở của đơn vị được kiểm toán, năng lực phản hồi và khả năng chấp nhận phê bình là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp thu và thực thi kiến nghị kiểm toán. Tại những tổ chức có văn hóa học hỏi cao, kiến nghị kiểm toán thường được nhìn nhận như một cơ hội cải tiến, thay vì chỉ mang tính khắc phục sai sót.
Ngoài ra, sự tham gia của đội ngũ công chức, lãnh đạo cơ quan và các nhà lập pháp trong việc ghi nhận giá trị của kiểm toán cũng có vai trò quan trọng trong việc duy trì tác động dài hạn.
Nhóm nhân tố tổ chức: Nhóm này giải thích cơ chế tác động của KTHĐ thông qua quy trình và kết quả kiểm toán. Các yếu tố then chốt bao gồm: Chất lượng báo cáo kiểm toán, quy trình kiểm toán, mức độ công khai thông tin, tính rõ ràng và khả thi của các phát hiện và kiến nghị.
Một báo cáo kiểm toán được trình bày mạch lạc, có lập luận chặt chẽ, bằng chứng thuyết phục và kiến nghị cụ thể, khả thi sẽ làm tăng xác suất kiến nghị được thực thi. Mức độ công khai thông tin kiểm toán (thông qua truyền thông, website hoặc báo cáo trước Quốc hội) cũng giúp mở rộng khả năng lan tỏa và tăng cường giám sát xã hội, từ đó nâng cao tác động thực tế.
Nhóm nhân tố thể chế: Nhóm này bao gồm các yếu tố có tính nền tảng, phản ánh vị thế, thẩm quyền và môi trường pháp lý của cơ quan kiểm toán tối cao (SAI). Uy tín, tính độc lập và quyền hạn pháp lý của SAI là điều kiện tiên quyết để KTHĐ tạo ra tác động đáng kể. Khi cơ quan kiểm toán có quyền tiếp cận thông tin đầy đủ, quyền báo cáo trực tiếp với Quốc hội và năng lực kỹ thuật cao, khả năng tiếp nhận và triển khai kiến nghị sẽ được cải thiện rõ rệt.
Quy trình lựa chọn chủ đề kiểm toán cũng là một yếu tố thể chế quan trọng. Kinh nghiệm Canada và Na Uy cho thấy việc lựa chọn chủ đề phù hợp với ưu tiên chính sách và mối quan tâm của xã hội sẽ làm tăng giá trị sử dụng của kết quả kiểm toán.
Bên cạnh đó, cách thức tổ chức hệ thống chính trị, mức độ phân quyền và mối quan hệ giữa lập pháp - hành pháp ảnh hưởng đáng kể đến phạm vi tác động. Trong các hệ thống có cơ chế theo dõi chặt chẽ việc thực hiện kiến nghị kiểm toán, báo cáo của cơ quan kiểm toán thường tạo ra sức ép chính trị lớn hơn đối với các cơ quan hành chính.
Đặc biệt, chất lượng quy trình kiểm toán có tính chi phối mạnh, định hình độ tin cậy, tính kịp thời và khả năng hành động của kiến nghị. Liên minh thể chế và nền tảng chính trị có thể khuếch đại hoặc hạn chế tác động của kiểm toán. Khi thông tin kiểm toán được lan tỏa rộng rãi thông qua truyền thông hoặc được Quốc hội quan tâm thảo luận, khả năng thực thi khuyến nghị và mức độ lan tỏa của tác động sẽ cao hơn.
Bài học kinh nghiệm với Việt Nam
Dù tồn tại sự khác biệt về cấu trúc quản trị giữa các quốc gia, nghiên cứu quốc tế đều chỉ ra rằng tác động của KTHĐ không chỉ gắn với kết quả đầu ra mà còn gắn với toàn bộ quá trình học hỏi thể chế. Quá trình này trải dài từ giai đoạn thực hiện kiểm toán, đối thoại công, cho tới phản hồi và giám sát sau kiểm toán. Cường độ và chất lượng của tiến trình này phụ thuộc vào mức độ độc lập, thẩm quyền pháp lý, năng lực kỹ thuật và cơ chế công khai - phản hồi của SAI.
Để nâng cao hiệu quả KTHĐ tại Việt Nam, có thể xem xét một số định hướng trọng tâm sau: Tăng cường tính độc lập và quyền hạn pháp lý của KTNN, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin đầy đủ và quyền báo cáo trực tiếp với Quốc hội theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước (sửa đổi). Thiết lập cơ chế phản hồi và giám sát việc thực hiện kiến nghị, thông qua sự phối hợp hiệu quả với Ủy ban Tài chính - Ngân sách, Hội đồng Dân tộc và các cơ quan giám sát của Quốc hội. Đẩy mạnh công khai và minh bạch kết quả KTHĐ, tạo động lực chính trị - xã hội tích cực và thúc đẩy trách nhiệm giải trình của đơn vị được kiểm toán.
Song song với đó, cần xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá tác động kiểm toán bao gồm cả chỉ báo định lượng và định tính cho ba nhóm tác động; nâng cao chất lượng báo cáo theo hướng phân tích rõ nguyên nhân - hậu quả, làm rõ các khuyến nghị khả thi và định lượng lợi ích công. Quy trình lựa chọn chủ đề kiểm toán cần được điều chỉnh phù hợp với các vấn đề chính sách được xã hội quan tâm.
Ngoài ra, cần thúc đẩy đào tạo kiểm toán viên theo hướng liên ngành, kết hợp kiến thức kế toán - kiểm toán với phân tích chính sách công và quản trị rủi ro; tăng cường đối thoại trong quá trình kiểm toán; xây dựng văn hóa học hỏi trong cơ quan kiểm toán; đẩy mạnh chia sẻ kinh nghiệm giữa các đoàn kiểm toán; đồng thời mở rộng ứng dụng dữ liệu và công nghệ phân tích số trong hoạt động kiểm toán./.