Cần “cú hích” cho ngành hàng tỷ đô
Doanh nghiệp - Ngày đăng : 06:37, 18/12/2025

Kết quả chưa tương xứng với tiềm năng
Từ những hoạt động nuôi trồng nhỏ lẻ, tự phát, đến nay, ngành nuôi biển của tỉnh Quảng Ninh đã thực sự ghi dấu ấn đậm nét.
Đến nay, diện tích nuôi trồng thủy sản trên toàn tỉnh đã tăng hơn 150% so với năm 2020, sản lượng nuôi biển chiếm 65% tổng sản lượng nuôi trồng toàn tỉnh, giá trị sản xuất năm 2024 ước đạt 7.000 tỷ đồng, dự báo đến 2030 đạt trên 16.600 tỷ đồng. Những con số “biết nói” này đã cơ bản phản ánh vai trò chủ lực của ngành nuôi biển trong bức tranh phát triển chung của tỉnh.
Không chỉ dừng lại ở việc tạo sự thuận lợi trong cơ chế quản lý, Quảng Ninh còn tiên phong ứng dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số trong nuôi biển. Hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý nuôi trồng, nền tảng truy xuất nguồn gốc sản phẩm với hàng nghìn mã QR đã được đưa vào vận hành.
Câu chuyện về ngành nuôi biển của tỉnh Quảng Ninh cũng là gợi mở về hướng phát triển tiềm năng đối với ngành nuôi biển cả nước, khi sau sáp nhập, Việt Nam có tới 21/34 tỉnh, thành phố ven biển, với những cơ hội rất lớn để phát triển ngành công nghiệp nuôi biển.
Hiện cả nước có khoảng 50.000 nghìn hộ ngư dân nuôi hải sản ở vùng ven bờ. Nếu chế biến sâu, xuất khẩu thủy sản từ nuôi biển có thể đạt 60 - 70 tỷ USD/năm. Đó là chưa kể giá trị mang lại từ nhuyễn thể, rong biển...
Ông Nguyễn Hữu Dũng - Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam - phân tích: Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km, hơn 3.000 đảo và vùng đặc quyền kinh tế rộng 1 triệu km². Chỉ cần sử dụng 0,1% diện tích biển, chúng ta đã có 1.000 km² nuôi, cho sản lượng tới 10 triệu tấn cá biển mỗi năm, chưa kể hải sản khác.
Tuy nhiên, hiện nay, nghề nuôi biển vẫn dựa vào kinh nghiệm truyền thống, công nghệ lạc hậu, trại nuôi phải “né” sóng gió, bão; thiếu chuỗi liên kết và chưa có tiêu chuẩn đồng bộ. Ông Nguyễn Hữu Dũng cho rằng, chỉ thay đổi vật liệu lồng không đủ, cần một mô hình tổ chức sản xuất mới - cụm công nghiệp nuôi biển.

Mặt khác, để được cấp phép nuôi biển, các tổ chức phải đáp ứng được rất nhiều tiêu chuẩn, cũng như phải thực hiện nhiều thủ tục, qua nhiều cơ quan, dẫn đến thời gian kéo dài và phát sinh nhiều tình huống phức tạp.
Đơn cử như tại tỉnh Quảng Ninh, mặc dù đạt nhiều kết quả nhưng quá trình triển khai nuôi biển vẫn gặp những rào cản. Theo quy hoạch, diện tích nuôi biển toàn tỉnh là hơn 45.000 ha, đến nay mới giao được gần 5.000 ha; địa phương chậm trễ trong việc ký xác nhận tọa độ, địa điểm nuôi trồng thủy sản. Mặt khác, vấn đề quy hoạch chồng lấn vẫn chưa được giải quyết triệt để…, khiến nhiều tổ chức, cá nhân nản lòng.
Đề cập thêm một số khó khăn trong hoạt động nuôi biển, lãnh đạo Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường - NNMT) cho biết, quy hoạch và thực hiện quy hoạch nuôi biển chưa tốt; hoạt động nuôi tự phát, phá vỡ quy hoạch còn phổ biến dẫn đến ô nhiễm môi trường. Công nghệ sản xuất giống, phòng trị bệnh trên đối tượng nuôi còn nhiều hạn chế; hạ tầng phục vụ nuôi biển công nghiệp; phát triển công nghiệp hỗ trợ; công nghệ thu hoạch và vận chuyển; công nghệ chế biến và phát triển thị trường chưa thực sự đáp ứng yêu cầu mở rộng, phát triển ngành theo hướng hiện đại…
Tập trung tháo gỡ “điểm nghẽn” để phát triển nuôi biển
Những thách thức đặt ra từ cơ chế, cũng như thực tiễn triển khai hoạt động nuôi biển tại các địa phương đòi hỏi cần có giải pháp căn cơ, trọng tâm là cơ chế, chính sách cần có sự thay đổi cho phù hợp hơn.
Từ góc độ của doanh nghiệp, đại diện Công ty Cổ phần Tập đoàn STP chia sẻ, thực tế triển khai, có nhiều “điểm nghẽn” lớn đang khiến khu vực tư nhân dè dặt với đầu tư nuôi biển công nghệ cao, đặc biệt là thiếu cơ chế, chính sách phù hợp. “Cần một hệ thống chính sách đồng hành thực sự, không chỉ tạo điều kiện mà còn chia sẻ rủi ro để giải phóng nguồn lực đầu tư, khơi thông tiềm năng và đưa ngành nuôi biển Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển đột phá” - đại diện doanh nghiệp cho biết.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nuôi biển, Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam kiến nghị xây dựng hệ thống cụm công nghiệp nuôi biển tại 21 tỉnh ven biển; kiến nghị giao Bộ NNMT làm đầu mối quản lý, ưu tiên quỹ đất và mặt biển, rà soát chính sách đầu tư, tài chính, bảo hiểm, công nghệ, đào tạo và chế biến, cùng việc ban hành tiêu chuẩn và định mức kinh tế - kỹ thuật cho nuôi biển công nghiệp.
Đồng thời, “cần chuyển việc quản lý các cụm công nghiệp nuôi biển cho Bộ NNMT để thống nhất quản lý, thay vì Bộ Công Thương như quy định hiện hành vì đặc thù nuôi biển gắn chặt với tài nguyên và môi trường biển” - ông Nguyễn Hữu Dũng kiến nghị.
Nếu triển khai hiệu quả, nuôi biển không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn góp phần thay đổi căn bản phương thức sản xuất, giảm áp lực lên khai thác truyền thống, đồng thời hỗ trợ giải quyết các yêu cầu liên quan đến gỡ “thẻ vàng” IUU cho thủy sản và nhiều quy định quốc tế sẽ có hiệu lực từ năm 2026.
Bộ trưởng Bộ NNMT Trần Đức Thắng
Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho hạ tầng nuôi biển và xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia cho nuôi biển công nghiệp, bởi đây đang là rào cản lớn đối với việc phát triển nuôi biển theo hướng quy mô lớn, hiện đại và bền vững.
Tại buổi làm việc với Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam chiều 16/12, Bộ trưởng Bộ NNMT Trần Đức Thắng cho rằng, việc phát triển nuôi biển không phải là câu chuyện "một sớm một chiều" và yêu cầu đặt ra là làm thế nào để nuôi biển phát triển một cách bài bản, công nghiệp, có tổ chức và bền vững.
Trước mắt, Bộ NNMT sẽ tập trung hỗ trợ triển khai ba dự án thí điểm tại Quảng Ninh, Khánh Hòa và An Giang, đại diện cho ba vùng biển với điều kiện tự nhiên khác nhau nhằm tạo cơ sở thực tiễn để nhân rộng trong thời gian tới.
Cùng với đó Bộ sẽ rà soát, ban hành đầy đủ hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật liên quan đến nuôi biển. Đồng thời rà soát toàn bộ các chính sách đang áp dụng, từ giao đất, cho thuê đất, thuê mặt biển, thuế, tín dụng, bảo hiểm đến các hình thức hỗ trợ khác.
Xác định nuôi biển đòi hỏi chi phí rất lớn, nhiều rủi ro, các ý kiến cho rằng, cơ chế, chính sách cần phải điều chỉnh phù hợp cho phép người dân có quyền sử dụng mặt biển lâu dài để thu hút đầu tư dài hạn. Bởi nếu chỉ được giao biển vài năm, người dân chỉ dám dựng lồng tạm mà không thể đầu tư lồng công nghệ cao, cơ sở chế biến.
Để phát triển ngành hàng theo hướng gia tăng giá trị, Hiệp hội Xuất khẩu thủy sản cho rằng, cần phát triển nuôi biển thành một lĩnh vực sản xuất hàng hóa, khuyến khích quy mô công nghiệp ở các vùng biển mở. Đồng thời, phát triển nuôi các đối tượng chủ lực và các loài có giá trị kinh tế gắn bảo vệ môi trường sinh thái../.