Sử dụng hiệu quả nguồn lực cho công tác giảm nghèo

Địa phương - Ngày đăng : 10:02, 24/12/2025

(BKTO) - Theo lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường (NNMT) tỉnh Phú Thọ, trong những năm qua, tỉnh Phú Thọ đã chủ động rà soát, tổng hợp và phân loại toàn bộ các chương trình, dự án và chính sách đang thực hiện trên địa bàn để có phương án sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư.
dsc_9174.jpg
Công tác giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đã đạt được nhiều kết quả

Tập trung mọi nguồn lực cho công tác giảm nghèo bền vững

Tỉnh đặc biệt tập trung nguồn lực cho các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn; ưu tiên hỗ trợ sinh kế, phát triển sản xuất và đầu tư hạ tầng thiết yếu. Sự phối hợp giữa các chương trình được triển khai theo hướng gắn kết và bổ trợ cho nhau. Hạ tầng nông thôn mới hoàn thiện giúp người dân thuận lợi phát triển sản xuất, còn việc nâng cao thu nhập và sinh kế lại tạo điều kiện để các địa phương đạt và duy trì bền vững các tiêu chí nông thôn mới.

Đây chính là cách tiếp cận giúp tỉnh tối ưu hóa nguồn lực, tránh dàn trải hoặc đầu tư trùng lặp.

Đơn cử như tại xã Phùng Nguyên, giai đoạn 2021-2025: Vốn đầu tư đã phân bổ và giải ngân 9.538/9.538 triệu đồng, đạt 100%. Vốn sự nghiệp được đã được phân bổ và giải ngân 2.381/2.500 triệu đồng (đạt 95,24%).

Đến nay, 100% tuyến đường trục xã, liên xã và liên thôn đã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa; trên 97% đường trục thôn, ngõ xóm được cứng hóa. Hạ tầng y tế, giáo dục, văn hóa - thể thao được đầu tư đồng bộ, phục vụ nhu cầu thiết yếu và nâng cao chất lượng cuộc sống... Năm 2025, thu nhập bình quân đầu người ước đạt 63 triệu đồng/người/năm.

Nguồn lực đầu tư đã góp phần thay đổi diện mạo đời sống của người dân. Tại xã Đà Bắc, 100% hộ nghèo, hộ cận nghèo thiếu hụt về các dịch vụ xã hội cơ bản được hỗ trợ một phần để từng bước cải thiện và tiếp cận các dịch vụ về việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, tiếp cận thông tin.

Về hỗ trợ sinh kế, từ năm 2021 đến nay, toàn tỉnh đã triển khai khoảng 200 dự án phát triển sản xuất và 336 mô hình giảm nghèo thuộc các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản. Hơn 10.000 hộ nghèo, cận nghèo và hộ mới thoát nghèo đã được hỗ trợ trực tiếp, với mức bình quân khoảng 16 triệu đồng/hộ. Nhờ đó, người dân có thêm điều kiện tiếp cận vốn, kỹ thuật sản xuất, việc làm, dịch vụ xã hội cơ bản và các yếu tố thiết yếu phục vụ đời sống.

Qua công tác giám sát, đánh giá tình hình thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025 và năm 2025 tại tỉnh Phú Thọ, Đoàn công tác của Bộ Tài chính đánh giá cao những nỗ lực của tỉnh trong thực hiện mục tiêu giảm nghèo.

Bên cạnh những kết quả đạt được, báo cáo giám sát của Bộ Tài chính, cũng như báo cáo của tỉnh Phú Thọ cũng thẳng thắn nhìn nhận: Việc lồng ghép các chương trình, dự án liên quan đến giảm nghèo chưa phát huy hiệu quả như kỳ vọng. Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp còn thiếu đồng bộ, làm phân tán nguồn lực và chưa tạo được tác động tổng hợp ở quy mô lớn. Công tác phân bổ, giải ngân và quyết toán nguồn vốn còn chậm do vướng thủ tục thẩm định, phê duyệt; trong khi việc điều chỉnh kế hoạch theo thực tế phát sinh lại chưa linh hoạt.

Điều này làm kéo dài thời gian thực hiện một số dự án, mô hình, giảm hiệu quả đầu tư. Một số chính sách hỗ trợ vẫn mang tính dàn trải, chưa tập trung vào đúng nhóm hộ có khả năng thoát nghèo; công tác giám sát, đánh giá hiệu quả sau hỗ trợ còn hạn chế.

Chú trọng lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia

Một trong những kết quả nổi bật của tỉnh Phú Thọ trong việc quản lý, sử dụng nguồn lực các Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, đó là tỉnh đã thực hiện tốt việc lồng ghép các chương trình để tập trung nguồn lực đầu tư.

Qua công tác giám sát, đánh giá tình hình thực hiện các Chương trình MTQG giai đoạn 2021-2025 và năm 2025 tại tỉnh Phú Thọ, Đoàn công tác của Bộ Tài chính đánh giá: Tỉnh đã chủ động lồng ghép, huy động các nguồn vốn hợp pháp khác để hỗ trợ thực hiện các nội dung thuộc Chương trình MTQG như: nguồn vốn xã hội hóa, nguồn vốn doanh nghiệp, nguồn đóng góp của người dân và cộng đồng, các tổ chức chính trị - xã hội, các chương trình, dự án quốc tế.

Cụ thể, bên cạnh nguồn lực của ngân sách trung ương, ngân sách địa phương đã cân đối, tỉnh (gồm tỉnh Hòa Bình (cũ) và tỉnh Phú Thọ (cũ)) bố trí vốn đối ứng là 3.802 tỷ đồng, đạt 103,42% số vốn cân đối tối thiểu theo quy định; nguồn tín dụng khoảng 26.920,944 tỷ đồng, vốn của các tổ chức, doanh nghiệp đóng góp 1.328.502 triệu đồng, đóng góp của cộng đồng, người dân 2.264,725 tỷ đồng...

Thực tế, qua công tác kiểm toán đối với các chương trình mục tiêu quốc gia thời gian qua, Kiểm toán nhà nước cũng cũng chỉ rõ những hạn chế, bất cập trong việc lồng ghép nguồn lực đầu tư của các chương trình; từ đó kiến nghị các địa phương cần xem xét thực hiện vấn đề này, đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư.

Những kiến nghị được Kiểm toán nhà nước đưa ra cũng đã được tỉnh Phú Thọ nghiêm túc tiếp thu, từ đó hoàn thiện công tác quản lý để nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng nguồn vốn cho giảm nghèo.

Từ thực tiễn triển khai tại địa phương, lãnh đạo Sở NNMT tỉnh cho biết, việc lồng ghép các chương trình MTQG trong giai đoạn 2026-2030 là định hướng phù hợp, cần thiết nhằm tối ưu hóa nguồn lực, khắc phục tình trạng dàn trải, trùng lặp đầu tư, đồng thời tạo sự thống nhất và đồng bộ hơn trong phát triển kinh tế - xã hội khu vực nông thôn. Việc kết hợp hai chương trình sẽ phát huy hiệu quả kép: vừa đầu tư hạ tầng thiết yếu, vừa hỗ trợ sinh kế, nâng cao thu nhập cho người dân, đặc biệt là các hộ nghèo và cận nghèo.

Từ đó, Sở NNMT đề xuất một số kiến nghị để hoàn thiện cơ chế, chính sách trong thời gian tới:

Thứ nhất, việc lồng ghép cần được thiết kế linh hoạt theo điều kiện của từng vùng, từng xã. Bên cạnh đầu tư hạ tầng, cần dành nguồn lực phù hợp để hỗ trợ trực tiếp cho sinh kế, tạo việc làm, phát triển sản xuất, bảo đảm nâng cao thu nhập bền vững cho người dân.

Thứ hai, Trung ương cần tăng cường công tác hướng dẫn, tập huấn cho đội ngũ cán bộ cơ sở về cách thức triển khai đồng thời hai chương trình. Việc nắm chắc cơ chế, tiêu chí và phương pháp lồng ghép sẽ giúp địa phương chủ động, sáng tạo trong tổ chức thực hiện.

Thứ ba, đề nghị thiết lập hệ thống giám sát - đánh giá liên thông, thống nhất giữa hai chương trình. Việc theo dõi đồng bộ sẽ giúp phát hiện kịp thời các bất cập, điều chỉnh chương trình cho phù hợp và bảo đảm nguồn vốn được sử dụng đúng mục tiêu, minh bạch, hiệu quả.

Thứ tư, khuyến khích mạnh mẽ việc ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới phương thức sản xuất và tăng cường liên kết thị trường trong các mô hình sinh kế. Đây là yếu tố then chốt giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và tăng thu nhập cho người dân nông thôn./.

N.LỘC