Giai đoạn 2016-2020: Củng cố bền vững tài chính quốc gia

Đối nội - Ngày đăng : 11:00, 24/03/2016

(BKTO) - Nhìn nhận rõ những khó khăn trong cân đối NSNN giai đoạn 2011-2015 và trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020, Chính phủ đặt ra các mục tiêu và giải pháp nhằm củng cố bền vững nền tài chính quốc gia trên cơ sở cơ cấu lại thu, chi ngân sách, giảm bội chi và quản lý chặt chẽ đầu tư công, đảm bảo an toàn nợ công.



Chính phủ sẽ cơ cấu lại chi NSNN phù hợp, bảo đảm tỷ lệ hợp lý giữa chi thường xuyên, chi đầu tư và chi trả nợ. Ảnh:TS

Đến năm 2020, nợ công không vượt quá 65%

Theo Báo cáo của Chính phủ về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 trình Quốc hội tại kỳ họp 11, ngày 21/3, trong giai đoạn 2011- 2015, bên cạnh những kết quả đạt được, một trong những hạn chế được Chính phủ thẳng thắn thừa nhận, đó là kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc, biểu hiện rõ nét là việc kiểm soát lạm phát và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế chưa thật bền vững.

Cụ thể, cân đối NSNN còn khó khăn, còn thất thu ngân sách. Tổng thu NSNN chưa đáp ứng đủ nhu cầu chi thường xuyên và chi trả nợ; toàn bộ chi đầu tư phải dựa vào nguồn vay nợ của Chính phủ. Cơ cấu chi ngân sách chưa phù hợp, tỷ lệ chi đầu tư tiếp tục giảm mạnh so với các giai đoạn trước từ 30,6% (giai đoạn 2001-2005) xuống 28,2% (giai đoạn 2006-2010) và còn khoảng 23,6% (giai đoạn 2011-2015); một số khoản chi chưa được quản lý chặt chẽ, chi thường xuyên tăng nhanh. Bội chi ngân sách còn cao, chưa đạt mục tiêu giảm xuống còn 4,5% GDP. Nợ công tuy vẫn bảo đảm trong giới hạn quy định nhưng tốc độ tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn; sử dụng vốn vay ở một số dự án kém hiệu quả và còn thất thoát, lãng phí. Tỷ lệ nợ công/GDP vào cuối năm 2015 khoảng 62,2%, nợ Chính phủ/GDP là 50,3%, nợ nước ngoài của quốc gia/GDP 43,1%.

Nhìn nhận rõ những khó khăn trên, bước sang giai đoạn 2016-2020, Chính phủ đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, dự kiến dư nợ công không vượt quá 65% GDP, nợ của Chính phủ không quá 55% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP. Bội chi NSNN giảm dần đến năm 2020 còn khoảng 4% GDP (trong đó: bội chi ngân sách Trung ương khoảng 3,5% GDP, bội chi ngân sách địa phương không quá 0,5% GDP).

Trong thu, chi NSNN, trên cơ sở dự báo tình hình kinh tế thế giới, khu vực và trong nước trong giai đoạn tới, Chính phủ dự kiến tỷ lệ huy động vào NSNN trên GDP giai đoạn 2016-2020 bình quân khoảng 21,8% GDP, trong đó huy động từ thuế và phí khoảng 20,2% GDP. Quy mô thu NSNN gấp khoảng 1,6 lần so với giai đoạn 2011-2015, trong đó quy mô thu nội địa (chưa bao gồm thu từ sử dụng đất) tối thiểu gấp 2 lần; tỷ trọng thu nội địa đến năm 2020 đạt trên 80% tổng thu NSNN, giảm tỷ trọng thu từ dầu thô và hoạt động xuất nhập khẩu. Quy mô chi NSNN giai đoạn 2016-2020 dự kiến đạt 25,7% GDP (gấp trên 1,5 lần so với giai đoạn 2011-2015).

“Siết” trong phân bổ và sử dụng vốn đầu tư công

Để đạt được mục tiêu trên, Chính phủ xác định, trong giai đoạn 2016-2020 sẽ tăng cường quản lý và từng bước cơ cấu lại chính sách thu, chi ngân sách, củng cố bền vững tài chính đồng thời bảo đảm đầu tư hợp lý vào hạ tầng kinh tế - xã hội, từng bước lập dự phòng tài chính quốc gia để có thể đối phó với những biến động lớn từ bên ngoài. Song song đó là các giải pháp như: tăng cường quản lý thu, chống thất thu, nợ đọng thuế; thực hiện nghiêm minh kỷ luật ngân sách ở tất cả các cấp, đối với tất cả các khoản chi; giảm và thắt chặt chi tiêu thường xuyên; cơ cấu lại chi NSNN phù hợp, bảo đảm tỷ lệ hợp lý giữa chi thường xuyên, chi đầu tư và chi trả nợ; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng NSNN; kiểm soát chặt chẽ bội chi để tiến tới giảm dần tỷ lệ bội chi NSNN.

Nhằm đảm bảo an toàn nợ công, nợ Chính phủ, việc phân bổ và sử dụng vốn đầu tư công sẽ được “siết” chặt chẽ hơn theo hướng, xác định và áp dụng nghiêm túc tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án, trong đó, phải tính đầy đủ giá của vốn và chi phí cơ hội của đầu tư để lựa chọn nhiệm vụ và thứ tự ưu tiên của dự án. Thiết lập hệ thống thông tin quản lý thống nhất trong cả nước về đầu tư công; công khai và minh bạch hóa thông tin về đầu tư nhà nước nói chung và từng dự án đầu tư nhà nước nói riêng. Tăng cường quản lý và sử dụng hiệu quả vốn vay của nhà nước; kiểm soát chặt chẽ, từng bước giảm dần vốn vay do Chính phủ bảo lãnh, vay của chính quyền địa phương và vay của DNNN.

Cùng với đó, hệ thống văn bản pháp luật có liên quan đến quản lý nợ công cũng sẽ được hoàn thiện để phù hợp với Luật NSNN 2015, Luật Đầu tư công và các Luật khác mới ban hành. Bổ sung, hoàn thiện quy chế về điều kiện sử dụng vốn, cho vay lại, bảo lãnh từ nguồn vốn nợ công theo hướng nâng cao trách nhiệm trong việc phân bổ, quản lý nợ công nếu dự án đầu tư kém hiệu quả do nguyên nhân chủ quan.

Theo Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, trong giai đoạn tới, ngưỡng nợ công sẽ được xác định phù hợp để tạo ra đòn bẩy tài chính hiệu quả của quốc gia, đảm bảo tính bền vững của chính sách tài khóa và tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế; đồng thời trần nợ công cụ thể cho từng năm trong giai đoạn 2016-2020 cũng sẽ được tính toán lại theo nguyên tắc số dư nợ công phải tương ứng với ngưỡng nợ công phù hợp của quốc gia và đảm bảo khả năng trả nợ trong từng thời kỳ của nền kinh tế. Cơ cấu lại nợ công theo hướng tăng tỷ trọng nợ vay dài hạn, tăng tỷ trọng nợ vay trong nước để giảm áp lực trả nợ trong ngắn hạn và rủi ro nợ vay nước ngoài khi kinh tế, tài chính thế giới biến động. Mặt khác, có chế tài tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa, đầu tư công và quản lý nợ công. Vay nợ phải tuân thủ chương trình quản lý nợ trung hạn, gắn kết chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch tài chính và đầu tư công trung hạn 5 năm đã được phê duyệt.
         
Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu giai đoạn 2016-2020:
   + Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5-7%/năm.
   + Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200-3.500 USD; tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ trong GDP khoảng 85%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32-34% GDP.
   + Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30-35%; năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 5%/năm; tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm 1-1,5%/năm
   + Tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2020 đạt 38 - 40%.
   + Đến năm 2020, tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65-70%; tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị dưới 4%
   + Có 9-10 bác sỹ và trên 26,5 giường bệnh/1 vạn dân; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1-1,5%/năm.
   + Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh và 85% chất thải nguy hại, 95-100% chất thải y tế được xử lý; tỷ lệ che phủ rừng đạt 42%.

NGUYỄN HỒNG