Xây dựng ngành Than trở thành ngành công nghiệp phát triển
Đầu tư - Ngày đăng : 10:00, 08/09/2016
(BKTO) - Quy hoạch điều chỉnh phát triển ngành Than Việt Nam đến năm 2020, có xéttriển vọng đến năm 2030 (Quy hoạch điều chỉnh) do Thủ tướng Chính phủ vừa phêduyệt đặt mục tiêu: “Xây dựng ngành Than trở thành ngành công nghiệp pháttriển; có sức cạnh tranh cao; có trình độ công nghệ tiên tiến so với khu vực ởtất cả các khâu thăm dò, khai thác, sàng tuyển, chế biến, sử dụng than; đáp ứngđủ than cho nhu cầu sử dụng trong nước, đặc biệt là than cho sản xuất điện”.
Đầu tư mở rộng khai thác, chế biến than
Tính đến hết năm 2015, tổng trữ lượng và tài nguyên than của Việt Nam khoảng 48,88 tỷ tấn, gồm khoảng 2,26 tỷ tấn trữ lượng và 46,62 tỷ tấn tài nguyên, trong đó có 0,34 tỷ tấn than bùn. Theo bản Quy hoạch điều chỉnh phát triển ngành Than thì trữ lượng và tài nguyên than huy động vào quy hoạch khoảng 3,05 tỷ tấn gồm khoảng 1,22 tỷ tấn trữ lượng và 1,83 tỷ tấn tài nguyên, trong đó có 0,06 tỷ tấn than bùn.
Mục tiêu đến năm 2020, tỷ lệ tổn thất than khai thác hầm lò giảm xuống dưới 20% Ảnh: TK
Dựa trên nguồn trữ lượng và tài nguyên than huy động vào quy hoạch này, Việt Nam đặt mục tiêu sản lượng khai thác than thương phẩm trong các giai đoạn như sau: đạt khoảng 41 - 44 triệu tấn vào năm 2016; đạt 47 - 50 triệu tấn vào năm 2020; đạt 51 - 54 triệu tấn vào năm 2025 và 55 - 57 triệu tấn vào năm 2030. Trong đó bể than sông Hồng giai đoạn 2021-2030 thực hiện dự án thử nghiệm, làm cơ sở cho việc đầu tư phát triển mỏ với quy mô công nghiệp; phấn đấu đạt sản lượng than thương phẩm (quy đổi) khoảng 0,5 - 1 triệu tấn vào năm 2030.
Để phục vụ cho công tác khai thác, Thủ tướng đề nghị trước năm 2020, ngành Than phải hoàn thành việc bố trí các cơ sở sàng tuyển vùng Quảng Ninh để tối ưu hóa công tác vận tải, sàng tuyển và phù hợp với quy hoạch phát triển đô thị vùng than, quy hoạch giao thông vận tải, cảng biển và yêu cầu bảo vệ môi trường. Sau năm 2020, ngành sẽ tập trung chế biến than theo hướng đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng linh hoạt nhu cầu thị trường. Do đó, ngoài việc đầu tư duy trì các nhà máy sàng tuyển than đã xây dựng, ngành Than được đầu tư xây dựng mới một số nhà máy sàng tuyển than như: Vàng Danh 2 (công suất 2 triệu tấn/năm); Khe Thần (2,5 triệu tấn/năm); Hòn Gai (5 triệu tấn/năm); Khe Chàm (7 triệu tấn/năm); Lép Mỹ (4 triệu tấn/năm)...
Đảm bảo các yếu tố phát triển ngành Than đồng bộ
Một trong những vấn đề lớn mà ngành Than cần khắc phục là giảm nhanh tỷ lệ tổn thất than khai thác. Do đã có thời kỳ tổn thất khai thác than hầm lò lên tới 40% nên tại Quy hoạch điều chỉnh này, mục tiêu được đặt ra là đến năm 2020 giảm tỷ lệ tổn thất than khai thác hầm lò xuống khoảng 20% và sau đó xuống dưới 20%; đồng thời tỷ lệ tổn thất than khai thác bằng phương pháp lộ thiên giảm xuống khoảng 5% và sau đó xuống dưới 5%.
Song song với việc gia tăng sản lượng khai thác than đều đặn qua các giai đoạn, ngành Than cũng cần phải chú trọng đẩy mạnh công tác thăm dò. Đối với bể than Đông Bắc, Thủ tướng yêu cầu đến hết năm 2020, ngành Than phấn đấu hoàn thành công tác thăm dò đến mức âm 300m và một số khu vực dưới mức âm 300m, đảm bảo đủ trữ lượng và tài nguyên tin cậy huy động vào khai thác trong giai đoạn đến năm 2025. Phấn đấu đến năm 2020 nâng cấp khoảng 1 tỷ tấn tài nguyên lên cấp trữ lượng và tài nguyên tin cậy. Xa hơn nữa, đến hết năm 2025, ngành Than hoàn thành cơ bản công tác thăm dò đến đáy tầng than. Đối với bể than sông Hồng, từ nay đến trước năm 2020 cần hoàn thành công tác thăm dò tại một số khu, mỏ; thực hiện các bước tiến hành thăm dò mở rộng để phát triển các mỏ than ở quy mô công nghiệp.
Cùng với việc định hướng quy hoạch vận tải phục vụ ngành Than thông qua hệ thống đường sắt, đường bộ..., quy hoạch cảng xuất than cũng được đề cập phát triển theo hướng cải tạo, xây dựng mới các cụm cảng tập trung có quy mô, công suất lớn với thiết bị hiện đại; từng bước xoá bỏ dần các bến nhỏ, lẻ, công nghệ lạc hậu.
Đáng chú ý, từ nay đến năm 2020 sẽ đầu tư cải tạo mở rộng cảng Điền Công, nâng công suất (giai đoạn I) lên 7 triệu tấn than và hàng hóa/năm, đầu tư xây dựng mới cảng Hồng Thái Tây với công suất khoảng 3 triệu tấn than và hàng hóa/năm. Bên cạnh đó, đầu tư xây dựng mới cảng tổng hợp Cẩm Phả với tổng công suất khoảng 13 triệu tấn than và hàng hóa/năm, phục vụ tàu tải trọng đến 60.000 DWT; đầu tư cải tạo, nạo vét luồng lạch cảng Nam Cầu Trắng phục vụ sản xuất than đến hết năm 2018 với công suất khoảng 5 triệu tấn than/năm. Giai đoạn 2021-2030 sẽ đầu tư cải tạo và mở rộng nâng công suất cảng Điền Công (giai đoạn II) lên khoảng 13 triệu tấn than và hàng hóa/năm.
Để từng bước chinh phục các mục tiêu trên, bản Quy hoạch điều chỉnh xác định tổng nhu cầu vốn đầu tư phát triển ngành Than Việt Nam từ nay đến năm 2030 khoảng 269 nghìn tỷ đồng. Như vậy, bình quân mỗi năm ngành Than cần tới gần 18 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư; trước mắt, trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, nhu cầu vốn của ngành Than vào khoảng 96,6 nghìn tỷ đồng. Nguồn vốn này dự kiến được thu xếp từ các nguồn: vốn tự có, vay thương mại, vay ưu đãi, huy động qua thị trường chứng khoán và các nguồn vốn hợp pháp khác.
QUỲNH ANH