Tăng thu ngân sách hàng chục nghìn tỷ đồng qua kiểm tra, đối chiếu thuế
Hoạt động của Ngành - Ngày đăng : 09:10, 27/04/2020
(BKTO) - Giai đoạn 2016-2019, qua công tác kiểm tra, đối chiếu số liệu báo cáo người nộp thuế tại các cuộc kiểm toán ngân sách địa phương (NSĐP), KTNN khu vực IV đã kiến nghị xử lý, khắc phục những hạn chế, sai phạm và kiến nghị tăng thu hàng nghìn tỷ đồng cho NSNN. Tuy nhiên, trong thực tế, việc kiểm tra, đối chiếu thuế còn gặp nhiều khó khăn.
Kiểm toán dự án BOT trên địa bàn TP.HCM. Ảnh: Như Ý
Phát hiện hàng loạt sai phạm về thuế trong điều kiện còn nhiều khó khăn
Qua kết quả kiểm toán NSĐP giai đoạn 2016-2019, KTNN khu vực IV đã kiến nghị tăng thu NSNN, giảm lỗ 13.049 tỷ đồng. Trong đó, kết quả kiểm tra, đối chiếu số liệu báo cáo của người nộp thuế tại các cơ quan quản lý thu (chủ yếu là cơ quan thuế) chiếm tỷ trọng lớn với bình quân năm đạt trên 95% số DN được kiểm tra, đối chiếu có kết quả tăng thu, xử lý tài chính.
Đặc biệt, kết quả kiểm tra, đối chiếu thuế phản ánh mức độ vi phạm pháp luật thuế còn cao, diễn ra ở hầu hết các địa phương và các loại hình DN, cũng như các sắc thuế. Công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan thuế còn nhiều sai phạm, bỏ sót vi phạm của các DN về kê khai doanh thu chịu thuế, thuế suất thuế giá trị gia tăng, áp dụng điều khoản miễn giảm thuế thu nhập DN; xác định chưa đúng tiền thu sử dụng đất, bỏ sót nhiều khoản chi phí không hợp lý của DN; miễn, giảm, hoàn thuế chưa đúng quy định hiện hành. Ngoài kết quả xử lý tài chính, KTNN khu vực IV còn kiến nghị sửa đổi nhiều cơ chế, chính sách và xem xét bổ sung các quy định pháp luật có liên quan đến lĩnh vực thuế. Kết quả này góp phần kiểm tra việc chấp hành quy định về nghĩa vụ nộp NSNN cũng như quá trình xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về kinh tế, tài chính nói chung và chính sách thuế nói riêng.
KTNN khu vực IV đạt được kết quả trên trong điều kiện gặp nhiều khó khăn về kiểm tra, đối chiếu thuế. Cụ thể, trách nhiệm của cơ quan quản lý thu trong việc phối hợp với KTNN và người nộp thuế chưa được quy định rõ và chưa có chế tài về việc chậm trễ trong phối hợp công tác, dẫn đến tình trạng người được đối chiếu không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, kịp thời tài liệu, thông tin phục vụ kiểm toán.
Hiện toàn Ngành đang thực hiện kiểm tra, đối chiếu thuế theo Công văn số 275/KTNN-CĐ ngày 18/3/2016 của KTNN, chưa có các văn bản mang tính pháp lý cao hơn áp dụng cho các đơn vị thuộc phạm vi đối chiếu thuế.
Bên cạnh đó, khâu lựa chọn đơn vị kiểm tra, đối chiếu chưa có tiêu chí cụ thể, nên có thể phát sinh việc chọn mẫu không trên cơ sở phân tích trọng yếu, rủi ro. Việc lựa chọn DN kiểm tra, đối chiếu thuế để tránh trùng lặp với các cơ quan thanh, kiểm tra còn khó khăn bởi thiếu thông tin từ các cơ quan khác ngoài ngành thuế. Đặc biệt từ giữa năm trở đi, công tác này lại càng khó khăn do các DN đã được cơ quan thuế và các đơn vị thanh tra, kiểm tra thực hiện kiểm tra quyết toán thuế hoặc thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật thuế.
Việc hoàn thành công tác kiểm tra, đối chiếu phụ thuộc vào sự phối hợp, thời gian cơ quan thuế đôn đốc các DN cung cấp hồ sơ theo yêu cầu. Trong quá trình kiểm tra, đối chiếu, KTNN yêu cầu phải có cán bộ thuế tham gia, ký cùng biên bản đối chiếu nhưng cơ quan thuế nhiều khi từ chối cử người tham gia, từ chối ký biên bản hoặc đồng ý ký nhưng chỉ xác nhận KTNN có làm việc với DN hoặc chỉ xác nhận chữ ký của cán bộ thuế.
Mặt khác, cơ quan thuế xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra hằng năm thường chọn các DN quy mô lớn, rủi ro về thuế cao trước khi KTNN triển khai kiểm toán tại địa phương, điều này khiến việc lựa chọn DN đối chiếu gặp khó khăn. Một số cơ quan thuế vẫn tiếp tục thanh tra, kiểm tra lại một số sắc thuế, nội dung mà KTNN đã kiểm tra, đối chiếu, không công nhận và kế thừa kết quả.
Khó khăn nữa là nhận thức của một số người nộp thuế chưa đầy đủ, nhiều DN không đồng ý cung cấp hồ sơ, tài liệu hoặc không hợp tác, kéo dài thời gian cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ, không cử đại diện đến giải trình; dùng những thủ đoạn nghiệp vụ tinh vi gây khó khăn cho việc phát hiện các gian lận về thuế. Số lượng người nộp thuế lớn, địa bàn rộng, trong khi nguồn lực của KTNN còn hạn chế, dẫn đến số lượng mẫu để kiểm tra, đối chiếu chiếm tỷ lệ nhỏ trong số lượng người nộp thuế mà cơ quan thuế quản lý.
Ban hành hướng dẫn và hồ sơ mẫu biểu, triển khaithực hiện Luật Kiểm toán nhà nước
Để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, đối chiếu thuế, KTNN cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Nghiêm túc thực hiện Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KTNN (Luật); ban hành các văn bản chỉ đạo hướng dẫn chung thực hiện trong toàn Ngành về quy trình, thủ tục kiểm tra, đối chiếu; rà soát, hoàn thiện hệ thống hồ sơ mẫu biểu kiểm toán, đối chiếu đảm bảo tuân thủ quy định của Luật.
Tập trung đào tạo chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cho công chức, viên chức toàn Ngành, đồng thời đẩy mạnh hướng dẫn sử dụng các phần mềm để triển khai tốt quy định trong Luật về quyền truy cập cơ sở dữ liệu của đơn vị được kiểm toán. Các đơn vị trực thuộc KTNN nên xây dựng dữ liệu thông tin DN trên địa bàn quản lý nhằm phục vụ công tác thu thập thông tin, phân tích, lựa chọn DN đối chiếu.
Cụ thể hóa quy định trong Luật về quyền hạn xử phạt vi phạm hành chính của KTNN khi kiểm tra, đối chiếu thuế. Trong lập kế hoạch kiểm toán và quá trình kiểm toán, chú trọng khảo sát, thu thập thông tin, áp dụng phương pháp đánh giá rủi ro, xác định trọng yếu để lựa chọn đúng đơn vị kiểm tra, đối chiếu; phân tích, nhận diện các loại rủi ro, sai phạm về định tính và định lượng.
Tăng cường phối hợp với chính quyền địa phương, cơ quan thuế; tạo mối quan hệ chặt chẽ và gắn trách nhiệm của cơ quan thuế trong công tác đôn đốc DN; phối hợp với cơ quan thuế trong lựa chọn người nộp thuế để kiểm tra, đối chiếu, tránh trùng lặp; công nhận và kế thừa kết quả để tránh chồng chéo, phiền hà cho DN.
Nâng cao năng lực cho kiểm toán viên, tổ chức các lớp trao đổi, hướng dẫn về kỹ năng đối chiếu và chính sách thuế. Tăng cường phổ biến pháp luật để người nộp thuế nắm, tuân thủ, chấp hành và phối hợp thực hiện, nâng cao hiệu lực kiểm tra, đối chiếu.
ThS. NGUYỄN ĐỨC MINH
KTNN khu vực IV