Bảo tồn, khai thác giá trị di sản thế giới: Hướng đi nào phù hợp
Xã hội - Ngày đăng : 08:10, 25/06/2015
(BKTO)- Khai thác hiệu quả giá trị các disản (DS) được thế giới công nhận không chỉ mang lại nguồn lợi kinh tế lớn màcòn góp phần quan trọng vào việc quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa dân tộc.Nhằm tiếp tục phát huy hơn nữa giá trị của DS, nhiều ý kiến cho rằng: Đã đếnlúc cần tăng cường thực hiện chủ trương xã hội hóa trong việc bảo tồn và khaithác giá trị của DS.
Lượng khách du lịch quốc tế đến thăm các điểm Di sản thế giới tại Việt Nam không ngừng tăng lên. Ảnh: T.K
Đóng góp quan trọng vào nguồn thu ngân sách
Trong những năm qua, nhờ đẩy mạnh khai thác, quảng bá hình ảnh, thương hiệu của các DS nên lượng khách du lịch tham quan tại các điểm DS thế giới tại Việt Nam không ngừng tăng lên. Vịnh Hạ Long và quần thể di tích Cố đô Huế khi mới được công nhận là DS thế giới chỉ có vài chục nghìn du khách đến nay đã thu hút tới trên 2 triệu lượt khách tới tham quan, nghiên cứu mỗi năm. Nhờ đó, tổng thu trực tiếp từ vé của những DS này có đóng góp quan trọng vào nguồn thu ngân sách của địa phương. Cụ thể, năm 2014, doanh thu từ vé tham quan Vịnh Hạ Long vào khoảng 350 tỷ đồng, quần thể di tích Cố đô Huế đạt hơn 139 tỷ đồng, phố cổ Hội An đạt hơn 98 tỷ đồng... Đó là chưa kể nguồn thu từ các dịch vụ khác.
Đặc biệt, nhiều DS sau khi được UNESCO vinh danh cũng đã nhận được sự hỗ trợ của các quốc gia và tổ chức quốc tế, như: dự án bảo tồn DS Hoàng thành Thăng Long do Qũy Tín thác Nhật Bản tài trợ với kinh phí 1,1 tỷ USD; di tích Cố đô Huế đã được nhiều Chính phủ và tổ chức quốc tế tài trợ với nguồn kinh phí gần 10 triệu USD để phục vụ công tác trùng tu, bảo tồn; dự án tu bổ, tôn tạo nhóm tháp G ở Mỹ Sơn do Chính phủ Ý tài trợ với kinh phí trên 1,5 triệu USD…
Tuy nhiên, so với tiềm năng thì những kết quả vừa qua được cho là chưa tương xứng.
Xã hội hóa là yêu cầu cấp thiết
Bên cạnh những kết quả to lớn kể trên, việc quản lý bảo tồn và phát huy giá trị các DS thế giới ở nước ta còn bộc lộ một số hạn chế, như: các quy định, quy chế quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị DS còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa được điều chỉnh kịp thời. Việc phân công, phân cấp, giao trách nhiệm cụ thể cho các đơn vị quản lý DS tại một số địa phương còn nhiều bất cập. Trong khi Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế (Thừa Thiên - Huế) là đơn vị cấp Sở nên có điều kiện chủ động trong hoạt động, thì Trung tâm Bảo tồn DS văn hóa Hội An và Ban Quản lý di tích và du lịch Mỹ Sơn (Quảng Nam) lại trực thuộc huyện/thành phố của tỉnh đã hạn chế năng lực tự chủ, nắm bắt các cơ hội cần thiết, gây nên nhiều chồng chéo, vướng mắc trong các hoạt động hợp tác. Một số DS dù đã được thế giới công nhận từ vài năm nay, song vẫn chưa có quy hoạch tổng thể để bảo tồn và phát huy giá trị DS theo quy định tại Nghị định số 70/2012/NĐ-CP của Chính phủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.
Nhiều chuyên gia văn hóa lo ngại, trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị DS, yếu tố kinh phí luôn là trở ngại lớn. Khi nguồn ngân sách đầu tư của Nhà nước hạn chế, năng lực khai thác của cơ quan quản lý DS còn bất cập, nhiều ý kiến cho rằng, đã đến lúc cần thực hiện mạnh mẽ, quyết liệt hơn chủ trương xã hội hóa trong công tác bảo tồn, khai thác giá trị của DS. Theo GS. Ngô Đức Thịnh - Ủy viên Hội đồng DS Quốc gia, việc thực hiện xã hội hóa không chỉ giúp giải quyết được những khó khăn về nguồn vốn đầu tư cho công tác bảo tồn, mà còn tạo động lực để khai thác, phát huy hiệu quả giá trị của DS.
Vừa qua, tỉnh Quảng Ninh đã đề xuất chủ trương kêu gọi DN hợp tác, cùng tham gia khai thác du lịch đối với Vịnh Hạ Long. Theo đó, vấn đề quản lý Nhà nước và bảo tồn DS do tỉnh thực hiện, DN chỉ thực hiện khai thác du lịch và dịch vụ. Dù vẫn còn ý kiến trái chiều xoay quanh chủ trương này, nhưng đây là hướng đi phù hợp với xu thế chung của thế giới. Các chuyên gia cũng lưu ý: Xã hội hóa không đồng nghĩa với việc tư nhân hóa mọi hoạt động liên quan đến DS. Cơ quan chủ quản phải giữ vai trò quản lý và hướng dẫn theo đúng định hướng và chủ trương của Nhà nước. Các DN tham gia với năng lực tài chính và sự nhạy bén trong kinh doanh sẽ khai thác tốt hơn các tiềm năng, thế mạnh của DS; đồng thời đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật có liên quan và chịu sự quản lý, giám sát của Nhà nước.
Trong những năm qua, nhờ đẩy mạnh khai thác, quảng bá hình ảnh, thương hiệu của các DS nên lượng khách du lịch tham quan tại các điểm DS thế giới tại Việt Nam không ngừng tăng lên. Vịnh Hạ Long và quần thể di tích Cố đô Huế khi mới được công nhận là DS thế giới chỉ có vài chục nghìn du khách đến nay đã thu hút tới trên 2 triệu lượt khách tới tham quan, nghiên cứu mỗi năm. Nhờ đó, tổng thu trực tiếp từ vé của những DS này có đóng góp quan trọng vào nguồn thu ngân sách của địa phương. Cụ thể, năm 2014, doanh thu từ vé tham quan Vịnh Hạ Long vào khoảng 350 tỷ đồng, quần thể di tích Cố đô Huế đạt hơn 139 tỷ đồng, phố cổ Hội An đạt hơn 98 tỷ đồng... Đó là chưa kể nguồn thu từ các dịch vụ khác.
Đặc biệt, nhiều DS sau khi được UNESCO vinh danh cũng đã nhận được sự hỗ trợ của các quốc gia và tổ chức quốc tế, như: dự án bảo tồn DS Hoàng thành Thăng Long do Qũy Tín thác Nhật Bản tài trợ với kinh phí 1,1 tỷ USD; di tích Cố đô Huế đã được nhiều Chính phủ và tổ chức quốc tế tài trợ với nguồn kinh phí gần 10 triệu USD để phục vụ công tác trùng tu, bảo tồn; dự án tu bổ, tôn tạo nhóm tháp G ở Mỹ Sơn do Chính phủ Ý tài trợ với kinh phí trên 1,5 triệu USD…
Tuy nhiên, so với tiềm năng thì những kết quả vừa qua được cho là chưa tương xứng.
Xã hội hóa là yêu cầu cấp thiết
Bên cạnh những kết quả to lớn kể trên, việc quản lý bảo tồn và phát huy giá trị các DS thế giới ở nước ta còn bộc lộ một số hạn chế, như: các quy định, quy chế quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị DS còn thiếu, chưa đồng bộ, chưa được điều chỉnh kịp thời. Việc phân công, phân cấp, giao trách nhiệm cụ thể cho các đơn vị quản lý DS tại một số địa phương còn nhiều bất cập. Trong khi Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế (Thừa Thiên - Huế) là đơn vị cấp Sở nên có điều kiện chủ động trong hoạt động, thì Trung tâm Bảo tồn DS văn hóa Hội An và Ban Quản lý di tích và du lịch Mỹ Sơn (Quảng Nam) lại trực thuộc huyện/thành phố của tỉnh đã hạn chế năng lực tự chủ, nắm bắt các cơ hội cần thiết, gây nên nhiều chồng chéo, vướng mắc trong các hoạt động hợp tác. Một số DS dù đã được thế giới công nhận từ vài năm nay, song vẫn chưa có quy hoạch tổng thể để bảo tồn và phát huy giá trị DS theo quy định tại Nghị định số 70/2012/NĐ-CP của Chính phủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.
Nhiều chuyên gia văn hóa lo ngại, trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị DS, yếu tố kinh phí luôn là trở ngại lớn. Khi nguồn ngân sách đầu tư của Nhà nước hạn chế, năng lực khai thác của cơ quan quản lý DS còn bất cập, nhiều ý kiến cho rằng, đã đến lúc cần thực hiện mạnh mẽ, quyết liệt hơn chủ trương xã hội hóa trong công tác bảo tồn, khai thác giá trị của DS. Theo GS. Ngô Đức Thịnh - Ủy viên Hội đồng DS Quốc gia, việc thực hiện xã hội hóa không chỉ giúp giải quyết được những khó khăn về nguồn vốn đầu tư cho công tác bảo tồn, mà còn tạo động lực để khai thác, phát huy hiệu quả giá trị của DS.
Vừa qua, tỉnh Quảng Ninh đã đề xuất chủ trương kêu gọi DN hợp tác, cùng tham gia khai thác du lịch đối với Vịnh Hạ Long. Theo đó, vấn đề quản lý Nhà nước và bảo tồn DS do tỉnh thực hiện, DN chỉ thực hiện khai thác du lịch và dịch vụ. Dù vẫn còn ý kiến trái chiều xoay quanh chủ trương này, nhưng đây là hướng đi phù hợp với xu thế chung của thế giới. Các chuyên gia cũng lưu ý: Xã hội hóa không đồng nghĩa với việc tư nhân hóa mọi hoạt động liên quan đến DS. Cơ quan chủ quản phải giữ vai trò quản lý và hướng dẫn theo đúng định hướng và chủ trương của Nhà nước. Các DN tham gia với năng lực tài chính và sự nhạy bén trong kinh doanh sẽ khai thác tốt hơn các tiềm năng, thế mạnh của DS; đồng thời đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật có liên quan và chịu sự quản lý, giám sát của Nhà nước.
NGUYỄN LỘC