Đưa “rồng lửa” vượt Trường Sơn áp sát Sài Gòn

Xã hội - Ngày đăng : 09:05, 16/04/2015

(BKTO) - Theo số liệutổng kết chiến tranh, lực lượng Quân đội ta tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh mùaXuân 1975 gồm có: 4 Quân đoàn (1, 2, 3 và 4) cùng Đoàn 232 (tương đương Quânđoàn) với tổng số lực lượng gồm 15 Sư đoàn, 1 Lữ đoàn và 4 Trung đoàn Bộ binh;20 Lữ đoàn, Trung đoàn và 8 Tiểu đoàn Pháo binh; 3 Lữ đoàn, Trung đoàn và 2 Tiểuđoàn Đặc công; 1 Trung đoàn Tên lửa; một bộ phận Không quân, Hải quân cùng lựclượng vũ trang địa phương và nhân dân trên địa bàn Chiến dịch.



Đoàn xe Tên lửa của Trung đoàn 263 trong lễ diễu binh mừng chiến thắng trên đường phố Sài Gòn ngày 15/5/1975 Ảnh: Do tác giả cung cấp
Trung đoàn Tên lửa phòng không duy nhất tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử ấy chính là Trung đoàn 263 chúng tôi. Trung đoàn Tên lửa 263 chúng tôi là Trung đoàn tên lửa thứ 8 của Bộ đội Tên lửa phòng không, thành lập ngày 30/5/1966. Trong gần 10 năm (1966 - 1975) xây dựng, chiến đấu và trưởng thành trong khói lửa của cuộc chiến tranh chống Mỹ, Trung đoàn đã đánh 294 trận, bắn rơi 67 máy bay Mỹ, trong đó có nhiều máy bay B52; được tuyên dương đơn vị Anh hùng.

Trung đoàn đã lập những chiến công đặc biệt xuất sắc: ngày 21/11/1970 hạ 2 máy bay F4, góp phần đập tan kế hoạch tập kích đường không của Mỹ hòng giải thoát bọn giặc lái ở trại giam Sơn Tây; ngày 22/11/1972 hạ chiếc máy bay B52 đầu tiên rơi tại chỗ góp kinh nghiệm thiết thực cho “Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không”; đêm 14/01/1973 bắn rơi 2 chiếc máy bay B52 và đó cũng là 2 chiếc máy bay Mỹ cuối cùng bị bắn rơi tại miền Bắc.

Ngay sau chiến thắng đêm 14/01/1973 ấy, Trung đoàn chúng tôi lại nhận nhiệm vụ nhanh chóng “Nam tiến” vào bảo vệ vùng trời giải phóng tỉnh Quảng Trị trước khi Hiệp định Paris có hiệu lực vào ngày 27/01/1973. Vậy là Trung đoàn chúng tôi đã trở thành Trung đoàn Tên lửa phòng không đầu tiên và duy nhất của Quân Giải phóng miền Nam làm nhiệm vụ bảo vệ vùng trời Quảng Trị giải phóng, trong đó có thị xã Đông Hà là nơi đặt trụ sở - được ví như “Thủ đô giải phóng” - của Chính phủ Cách mạng lâm thời.

Thấm thắt đã hơn 2 năm làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ vùng trời giải phóng Quảng Trị, sau Tết Nguyên đán Ất Mão 1975, Trung đoàn chúng tôi được trên giao nhiệm vụ mới. Nhiệm vụ tuyệt mật đến mức chỉ có Trung đoàn trưởng, Chính ủy và Tham mưu trưởng Trung đoàn được biết. Còn tất cả cán bộ, chiến sỹ chỉ được phổ biến là chuẩn bị cấp tốc để hành quân đường dài.

Vốn đã quen cơ động chiến đấu nên các đơn vị trong Trung đoàn chúng tôi đều khẩn trương chuẩn bị lên đường. Nhìn cơ ngơi doanh trại, trận địa đã khá khang trang mà phải bỏ lại, ai cũng thấy tiếc! Nhưng chấp hành lệnh của trên, một ngày đầu tháng 3/1975, Trung đoàn chúng tôi bắt đầu “rồng rắn” nối đuôi nhau xuất phát hành quân về hướng Tây, theo đường 9 vượt qua Lao Bảo hướng thẳng đến Bản Đông của nước bạn Lào. Khi đội hình hành quân đến ngã ba Sê Sụ của tỉnh Xavanakhet, chỉ huy Trung đoàn hạ lệnh rẽ trái, thẳng tiến về phía Nam. Vậy là Trung đoàn chúng tôi hành quân theo đường Tây Trường Sơn và chưa biết điểm dừng tại đâu!

Những ngày hành quân trên đất bạn Lào, chúng tôi hết sức ngỡ ngàng trước những cánh rừng già đại ngàn rộng mênh mông cứ tưởng như đi mãi không hết. Đất rừng nam Lào thật bằng phẳng nhưng do xe quân sự chạy suốt ngày đêm nên mặt đường mùa khô toàn một thứ đất mịn như bột ngập hết nửa bánh xe ô tô. Vào mùa mưa thì con đường chắc sẽ trở thành cháo loãng… Đơn vị chúng tôi băng qua những cánh rừng Săng Lẻ với những thân cây cổ thụ to lớn phải mấy người ôm. Hết rừng Săng Lẻ lại qua rừng Khộp. Rừng đang mùa khô, những chiếc lá Khộp to như cái quạt nan rụng đầy mặt đất. Ô tô lăn bánh đè lên thảm lá Khộp khô và dày ấy phát ra âm thanh vỡ ròn như xe đang nghiền qua những chiếc bánh đa…

Chính trong những ngày hành quân trên đường Tây Trường Sơn và trên đất bạn Lào, chúng tôi mới dần hiểu ra nhiệm vụ của Trung đoàn mình khi quân ta nổ súng tấn công đánh chiếm căn cứ Đức Lập ở Buôn Ma Thuột và tiếp đó cả vùng Tây Nguyên rộng lớn đã được giải phóng. Quả đúng như vậy, đến ngã ba biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia, Trung đoàn chúng tôi được lệnh rẽ trở về đất Việt và tiếp tục thẳng tiến vào chiến trường B2 tức miền Đông Nam bộ.

Tuy vậy không thể không kể đến những khó khăn vất vả của cuộc hành quân dài mấy trăm cây số đường cả hai phía Tây và Đông Trường Sơn với nhiều dốc cao, cua gấp, đường xấu trong khi xe khí tài tên lửa to, dài, nặng, cồng kềnh rất khó đi, chỉ thiếu cẩn trọng một chút là sẽ mất an toàn. Vì vậy theo sát đội hình hành quân các xe khí tài và xe chở đạn tên lửa của Trung đoàn chúng tôi luôn luôn có anh em bộ đội công binh đi cùng. Nhiều chiến sỹ công binh lần đầu tiên thấy khí tài Tên lửa phòng không to cao cồng kềnh mà cũng vượt Trường Sơn vào chiến trường thì phấn khởi lắm: “Phen này nếu máy bay Mỹ có trở lại cũng không sợ chứ thèm chấp gì mấy cái máy bay của bọn ngụy!”.

Anh em công binh rất quan tâm tìm hiểu đặc tính của từng loại xe khí tài tên lửa để có cách bảo đảm đường sá an toàn nhất. Mặc dù rất sốt ruột muốn đi nhanh nhưng nhiều ngày chúng tôi buộc phải tạm dừng lại để chờ công binh sửa đường, gia cố thêm các cây cầu, các đoạn ngầm hoặc bạt núi mở rộng những khúc cua vốn chỉ đủ để xe con hoặc xe tải bình thường chạy mà thôi. Vậy mà vẫn xảy ra trường hợp do đường quá xấu, xe khí tài tên lửa bị hỏng quá nặng không có phụ tùng đặc chủng thay thế nên chỉ huy đơn vị quyết định để lại dọc đường và cử người ở lại bảo vệ. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Trung đoàn mới cử cán bộ kỹ thuật quay trở lại đem theo phụ tùng thay thế, sửa chữa để đưa số xe máy, khí tài này về đơn vị.

Vượt hết đường Trường Sơn, Trung đoàn chúng tôi được hành quân trên những tuyến đường nhựa của vùng đất mới được giải phóng nên chẳng mấy thời gian, đội hình Trung đoàn đã băng qua những địa danh có những cái tên rất lạ: Bù Gia Mập, Bù Đăng, Bù Đôp… Có những đoạn đường còn nhiều mìn do địch để lại nên xe chở bộ binh, xe tăng, xe kéo pháo, xe tên lửa… chỉ được chạy giữa đường và cùng nhằm tới đích cuối cùng là Sài Gòn! Đây là những ngày chạy đua với thời gian trong cuộc hành quân thần tốc gắn với bức điện lịch sử của Đại tướng Võ Nguyên Giáp:“Thần tốc, thần tốc hơn nữa! Táo bạo, táo bạo hơn nữa! Tranh thủ từng giờ từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam! Quyết chiến và toàn thắng!”. Ngày 26/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh chính thức mở màn.

Trung đoàn Tên lửa phòng không chúng tôi được Bộ chỉ huy Chiến dịch giao nhiệm vụ đánh địch ở tầm cao và xa để yểm hộ cho đội hình tiến công của các binh đoàn trên hướng Bắc - Tây Bắc Sài Gòn; đặc biệt là trong thời gian quyết định của Chiến dịch và trong tình huống không quân Mỹ can thiệp cứu nguy cho quân ngụy.

Vượt qua rất nhiều khó khăn, đúng 18 giờ ngày 27/4, Trung đoàn chúng tôi đã hoàn thành việc chiếm lĩnh trận địa và triển khai chiến đấu tại cửa ngõ Tây Bắc Sài Gòn. Sáng sớm ngày 28/4, cả Trung đoàn trưởng và Chính ủy Trung đoàn đều có mặt cùng kíp trắc thủ trên xe điều khiển của Tiểu đoàn hỏa lực theo sát diễn biến tình hình với quyết tâm đánh địch và phải đánh thắng trong trận đánh cuối cùng vào sào huyệt kẻ thù. Thế nhưng hình như “đánh hơi” được có tên lửa SAM2 của quân đội ta - loại vũ khí đã từng quật lộn cổ “Pháo đài bay B52” của Mỹ trên vùng trời Hà Nội - nên cả ngày hôm đó không có chiếc máy bay địch nào dám bay vào tầm bắn của đơn vị.

Sang ngày hôm sau 29/4, trên màn hiện sóng ra đa của Trung đoàn tuyệt nhiên không còn thấy tín hiệu máy bay cường kích của địch nữa mà chỉ còn tín hiệu máy bay trực thăng Mỹ thực hiện cuộc di tản cuối cùng tháo chạy khỏi Sài Gòn. Nhưng lệnh trên không cho đánh, cứ để cho chúng cút!

Trưa ngày 30/4/1975, đại quân ta từ các hướng tiến vào đánh chiếm Dinh Độc Lập và các cơ quan đầu não của kẻ thù tại hang ổ cuối cùng của chúng. Sài Gòn đã được giải phóng! Cuộc chiến đấu gian khổ, hy sinh giành độc lập, tự do của dân tộc kéo dài suốt 30 năm đã đến đích. Hầu như không một cán bộ, chiến sỹ nào của Trung đoàn chúng tôi ngày ấy không khỏi nuối tiếc vì đơn vị đã không kịp nổ súng phóng “rồng lửa” lên tiêu diệt máy bay địch trong trận chiến cuối cùng! Chúng tôi chỉ được an ủi phần nào khi đoàn xe tên lửa của Trung đoàn được tham gia cuộc diễu binh mừng chiến thắng ngày 15/5/1975 tại Sài Gòn trước sự ngưỡng mộ không sao kìm nén được của đồng bào thành phố mang tên Bác vừa được giải phóng!

Đã 40 năm trôi qua nhưng các cựu chiến binh Trung đoàn chúng tôi vẫn giữ nguyên những hồi ức không thể nào quên về cuộc hành quân “có một không hai” của Trung đoàn đưa “rồng lửa” vượt Trường Sơn tham gia trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Mặc dù không còn thời cơ nổ súng, nhưng với việc đưa được Tên lửa phòng không vượt Trường Sơn vào áp sát Sài Gòn đã khiến kẻ địch càng thêm hoảng loạn, tan rã và hạn chế khả năng sử dụng không quân của chúng, tạo điều kiện cho Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi trọn vẹn và nhanh chóng.

HỮU MÃO
Cựu chiến binh Trung đoàn 263 Tên lửa phòng không)