Bảo đảm tính khả thi, hiệu quả, tiến độ đầu tư hai dự án vành đai

(BKTO) - Chiều 12/5, tiếp tục chương trình Phiên họp thứ 11, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) cho ý kiến về việc trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư Dự án đường Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội (Dự án Vành đai 4); Dự án đường Vành đai 3 TP. Hồ Chí Minh (Dự án Vành đai 3). Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành nội dung thảo luận.



                
   

Quang cảnh phiên họp. Ảnh: quochoi.vn

   

Theo tờ trình của Chính phủ, Dự án vành đai 4 có tổng chiều dài khoảng 112,8km (gồm 103,1 km đường Vành đai 4 và 9,7km tuyến nối theo hướng cao tốc Nội Bài - Hạ Long) qua địa phận TP. Hà Nội (dài 58,2km); tỉnh Hưng Yên (dài 19,3km); tỉnh Bắc Ninh (dài 25,6km và tuyến nối 9,7km).

Dự án được đề xuất theo hình thức đầu tư công kết hợp đầu tư phương thức đối tác công - tư (PPP), được chia thành 7 dự án thành phần. Sơ bộ tổng mức đầu tư giai đoạn phân kỳ đầu tư (giai đoạn 1) khoảng 85.813 tỷ đồng, sử dụng nguồn vốn NSNN và vốn BOT của nhà đầu tư để thực hiện đầu tư.

Dự án Vành đai 3 có tổng chiều dài tuyến là 76,34 km (bao gồm TP. Hồ Chí Minh 47,5 km; tỉnh Đồng Nai 11,26 km; tỉnh Bình Dương 10,76 km; tỉnh Long An 6,8 km). Dự án được đề xuất đầu tư công, với sơ bộ tổng mức đầu tư khoảng 75.378 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương.

Thẩm tra Tờ trình của Chính phủ, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, Thường trực Ủy ban Kinh tế nhất trí với sự cần thiết đầu tư các Dự án với những lý do đã nêu tại Tờ trình Chính phủ nhằm cụ thể hóa Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thông qua và phù hợp với Nghị quyết số 29/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025; trong đó yêu cầu “khẩn trương chuẩn bị đầu tư, sớm khởi công và cơ bản hoàn thành các dự án đường vành đai 3, 4 của khu vực động lực Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh”.

Các Dự án được lập cơ bản phù hợp với Chiến lược, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thông qua; Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 và phù hợp với quy hoạch của các ngành, các địa phương có liên quan.

Tuy nhiên, Thường trực Ủy ban Kinh tế cũng chỉ rõ, việc triển khai thực hiện nhiều dự án đường cao tốc cùng một thời gian, trong đó tập trung chủ yếu vào giai đoạn 2022 - 2025 sẽ cần một nguồn lực rất lớn, do đó sẽ khó bảo đảm tiến độ cơ bản hoàn thành trong năm 2025.

Do vậy, Thường trực Ủy ban Kinh tế đề nghị đánh giá bổ sung đầy đủ về khả năng giải ngân, hấp thụ vốn, sự cân đối và hiệu quả trong phân bổ nguồn lực, năng lực quản lý, nguồn nhân lực, khả năng gây ra tình trạng khan hiếm và tăng giá nguyên vật liệu... để có giải pháp kịp thời nhằm bảo đảm tính khả thi, hiệu quả, tiến độ, chất lượng cho dự án này và các dự án quan trọng khác cùng được triển khai.
                
   

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu tại phiên họp. Ảnh: quochoi.vn

   

Dự và phát biểu tại phiên họp, Phó Tổng Kiểm toán nhà nước Nguyễn Tuấn Anh nêu rõ, theo đánh giá của KTNN, chủ trương đầu tư các dự án phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, phù hợp với Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội. Đồng thời, hai dự án này cũng phù hợp với quy hoạch mạng lưới đường bộ giai đoạn 2021-2030. Việc đầu tư các dự án góp phần cải thiện năng lực cạnh tranh của các tỉnh, thành phố cũng như phát triển hạ tầng giao thông.

Đối với dự án Vành đai 3, Phó Tổng Kiểm toán nhà nước lưu ý, Chính phủ đề xuất áp dụng hình thức đầu tư công kết hợp đầu tư theo phương thức PPP, trong đó tách riêng phần giải phóng mặt bằng và phần xây dựng đường song hành triển khai độc lập theo địa giới hành chính giữa các địa phương, thực hiện theo hình thức đầu tư công. Tuy nhiên, theo quy định của Luật PPP, vốn đầu tư dự án phải bao gồm cả chi phí giải phóng mặt bằng, nếu tách ra thì phần chi phí của nhà đầu tư và chi phí của Nhà nước trong dự án này sẽ không công bằng với các dự án BOT khác. Do đó, Chính phủ cần tính toán để có phương án phù hợp.

Về áp dụng cơ chế đặc thù, Phó Tổng Kiểm toán nhà nước cho biết, KTNN tán thành việc áp dụng cơ chế đặc thù theo Nghị quyết 43 của Quốc hội để thực hiện 2 dự án này. Tuy nhiên, KTNN cũng lưu ý, đối với việc thực hiện cơ chế khai thác mỏ khoáng sản để thực hiện dự án vượt công suất, cần lưu ý việc bảo vệ môi trường sinh thái cũng như trữ lượng khai thác; đề nghị Chính phủ cần có báo cáo rõ hơn về vấn đề này.

Phát biểu tại phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đề nghị Chính phủ nghiên cứu tiếp thu tối đa, giải trình thuyết phục, thỏa đáng những vấn đề được cơ quan thẩm tra chỉ ra.

Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, đây là 2 dự án quan trọng nên việc chuẩn bị phải hết sức kỹ lưỡng, tính toán nguồn vốn phải đảm bảo tuân thủ khung chính sách đã đề ra trong 5 năm để cân đối các nguồn lực, đảm bảo vừa tập trung trọng điểm, vừa toàn diện và quan trọng nhất là bảo đảm tính khả thi và hiệu quả.

Chủ tịch Quốc hội cũng lưu ý việc giãn tiến độ thực hiện của 2 dự án trong 1 năm nhằm giảm áp lực vốn cho địa phương đồng thời dành một phần vốn của trung ương cho các dự án, công trình khác.

Chủ tịch Quốc hội cũng đề nghị cần nêu rõ trách nhiệm của Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải và các địa phương trong việc tổ chức triển khai các dự án; đồng thời đề nghị KTNN sớm có ý kiến về chủ trương đầu tư các dự án này trình Quốc hội xem xét, quyết định./.
         
Cũng trong phiên họp chiều 12/5, với 100% Ủy viên UBTVQH biểu quyết tán thành, UBTVQH đã thông qua Nghị quyết thành lập thị trấn Phương Sơn thuộc huyện Lục Nam và thành lập thị trấn Bắc Lý thuộc huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.
Đ. KHOA


Cùng chuyên mục
Bảo đảm tính khả thi, hiệu quả, tiến độ đầu tư hai dự án vành đai