Công bố kết quả kiểm toán quản lý, sử dụng Quỹ bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2020-2022

(BKTO) - KTNN vừa hoàn thành cuộc kiểm toán chuyên đề Việc quản lý, sử dụng Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2020-2022 tại các tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Giang và TP. Hải Phòng.

Bài 1: Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng kết dư lớn

Kiểm toán nhà nước chỉ rõ: Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2020-2022 có số dư cuối kỳ 517,979 tỷ đồng. Trong đó, số thu tiền trồng rừng thay thế đã quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày chủ dự án nộp tiền nhưng địa phương không bố trí được hoặc chưa bố trí đủ diện tích đất trồng rừng thay thế là 275,318 tỷ đồng...

trong-rung.jpg
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Kết quả kiểm toán cho thấy: Về tình hình thu - chi Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2020-2022 đến 31/3/2023: Tổng số thu trong kỳ 541,236 tỷ đồng  (trong đó thu tiền trồng rừng thay thế 491,874 tỷ đồng, dịch vụ môi trường rừng 36,132 tỷ đồng, còn lại là thu lãi tiền gửi, Quỹ Bảo vệ và phát triển Việt Nam điều chuyển); số đã chi 106,956 tỷ đồng (trong đó, chi trồng rừng thay thế 86,910 tỷ đồng, dịch vụ môi trường rừng 17,105 tỷ đồng, còn lại chi quản lý, dự phòng chi); số dư cuối kỳ 517,979 tỷ đồng (trong đó số thu tiền trồng rừng thay thế đã quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày chủ dự án nộp tiền nhưng địa phương không bố trí được hoặc chưa bố trí đủ diện tích đất trồng rừng thay thế 275,318 tỷ đồng.

Trồng rừng thay thế - có tiền nhưng thiếu đất

Cũng theo kết quả kiểm toán, Hải Dương quyết định chuyển mục đích sử dụng đất, cho thuê toàn bộ diện tích đất rừng, bao gồm cả diện tích đất rừng chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp tiền trồng rừng thay thế (2 dự án). Đây cũng là tỉnh thực hiện chuyển loại rừng đặc dụng (3,9624 ha) sang loại rừng sản xuất trước khi chuyển mục đích sử dụng 3,9624 ha rừng sản xuất sang mục đích khác. Tuy nhiên, đến thời điểm kết thúc kiểm toán, địa phương chưa báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng diện tích rừng đặc dụng này (do đã chuyển loại rừng đặc dụng thành rừng sản xuất trước khi chuyển mục đích sử dụng rừng).

Kết quả kiểm toán việc quản lý, sử dụng quỹ Bảo vệ và phát triển rừng tại Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Giang và TP. Hải Phòng cho thấy: Ngoại trừ Hải Dương, 3/4 địa phương đã thành lập được Quỹ. Công tác chỉ đạo kiểm tra, giám sát của UBND cấp tỉnh chưa được quan tâm, thực hiện thường xuyên; việc chấp hành chế độ báo cáo chưa kịp thời, đầy đủ…

Hải Dương, Bắc Giang chưa ban hành quyết định chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác đối với các dự án đã nộp tiền trồng rừng thay thế (Hải Dương 5 dự án, Bắc Giang 35 dự án) theo quy định.

Tại Bắc Giang, Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng đất rừng phòng hộ sang mục đích khác cho Công ty Cổ phần tập đoàn khoáng sản Á Cường đối với diện tích rừng 2,5ha để khai thác khoáng sản thuộc khu vực cấm khai thác khoáng sản trước khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản.

Tại Bắc Giang, TP. Hải Phòng, khi quyết định phương án chấp thuận nộp tiền trồng rừng thay thế, địa phương đã không xác định rõ phương án thuộc trường hợp UBND tỉnh bố trí đất để trồng rừng thay thế trên địa bàn hoặc trường hợp địa phương không còn quỹ đất quy hoạch phát triển rừng để trồng rừng thay thế theo quy định.

Một số địa phương đã chấp thuận phương án nộp tiền, thu tiền trồng rừng thay thế nhưng đến thời điểm kết thúc kiểm toán chưa giao kế hoạch trồng rừng thay thế cho toàn bộ diện tích rừng đã chuyển mục đích sử dụng rừng, diện tích rừng trồng thay thế (Quảng Ninh 1.913,64 ha chưa giao kế hoạch, Bắc Giang 128,12ha chưa giao kế hoạch).

Từ khi thành lập Quỹ đến ngày 31/3/2023, các tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Giang và TP. Hải Phòng đã phê duyệt phương án thu tiền trồng rừng thay thế để chuyển đổi 5.470,01ha rừng (rừng tự nhiên 170,09ha, rừng trồng 5.299,92ha) sang mục đích khác, diện tích rừng phải trồng thay thế 5.607,54ha, diện tích rừng đã trồng thay thế 3.341,64ha (bằng 60% so với diện tích phải trồng); diện tích còn phải trồng rừng thay thế 2.274,07ha.

Diện tích còn phải trồng rừng thay thế đến ngày 31/3/2023 tại các địa phương là 2.274,07ha. Số tiền trồng rừng thay thế (275,318 tỷ đồng) đã quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày chủ dự án nộp tiền nhưng địa phương không bố trí được hoặc chưa bố trí đủ diện tích đất trồng rừng thay thế cần phải chuyển tiền trồng rừng thay thế về Quỹ để tổ chức trồng rừng thay thế tại địa phương khác theo quy định…

Tính thiếu đơn giá trong phương án trồng rừng thay thế

Kết quả kiểm toán cho thấy: Đơn giá trong phương án trồng rừng thay thế được phê duyệt còn tính thiếu một số hạng mục chi phí theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Quảng Ninh giai đoạn từ 30/8/2021 đến hết năm 2022 thiếu công cụ dụng cụ, chi phí dự phòng; Hải Dương thiếu chi phí dự phòng; Bắc Giang thiếu chi phí chung, chi phí khác, chi phí dự phòng; Hải Phòng thiếu chi phí khác, chi phí dự phòng).  

Quảng Ninh không phê duyệt lại đơn giá thu nộp tiền trồng rừng thay thế khi quy định tính toán có thay đổi. Điều này dẫn đến đơn giá thu tiền trồng rừng thay thế thấp hơn đơn giá giao kế hoạch trồng rừng thay thế. Quảng Ninh có 814,3ha diện tích rừng chuyển đổi mục đích, tỉnh đã nộp tiền trồng rừng thay thế 121,29 tỷ đồng theo đơn giá đối với từng loại rừng (rừng trồng ngập mặn và rừng trồng trên cạn) tại thời điểm thu nhưng đến nay, chưa được giao kế hoạch trồng rừng thay thế. Đơn giá trồng rừng thay thế đối với 1ha đang cao hơn so với đơn giá tại thời điểm thu.

UBND tỉnh Hải Dương phê duyệt kế hoạch trồng rừng thay thế nhưng xác định diện tích trồng thay thế không đủ so với diện tích rừng đã quyết định chuyển mục đích sử dụng (còn thiếu là 17,37ha); cho phép đơn vị nộp tiền làm nhiều đợt theo đơn giá tính ban đầu mà không xác định đơn giá tại thời điểm nộp tiền theo quy định; xác định dự toán đơn giá cây giống Thông mã vĩ cao hơn từ 1,95 đến 2 lần so với đơn giá quy định của UBND tỉnh Hải Dương.

Hải Dương và Hải Phòng áp dụng văn bản không còn phù hợp để tính toán, phê duyệt đơn giá thu tiền trồng rừng thay thế.

Chưa nộp, chậm nộp tiền trồng rừng thay thế

Luật Lâm nghiệp 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành có hiệu lực từ ngày 01/01/2019 nhưng đến thời điểm kết thúc kiểm toán, Hải Dương chưa xác định ranh giới lưu vực và diện tích rừng trong lưu vực thuộc địa giới hành chính của tỉnh để trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt theo quy định; chưa rà soát, xác định xem các tổ chức có thuộc đối tượng phải trả tiền dịch vụ môi trường rừng theo quy định, chưa ký kết hợp đồng ủy thác chi trả dịch vụ môi trường rừng theo quy định để đưa các đối tượng theo quy định vào quản lý thu.

TP. Hải Phòng chưa hoàn thành việc xây dựng bản đồ lưu vực nơi cung ứng dịch vụ môi trường rừng, chưa xác định diện tích rừng được chi trả và đối tượng được chi trả tiền cung ứng dịch vụ môi trường rừng theo quy định.

Quảng Ninh chưa rà soát, xác định đối tượng, ký hợp đồng ủy thác chi tiền dịch vụ môi trường rừng năm 2020 đối với các đơn vị được ký hợp đồng bắt đầu từ năm 2021; không thực hiện điều tiết nguồn thu tiền dịch vụ môi trường rừng từ Quỹ Trung ương (3,62 tỷ đồng) cho đơn vị có mức chi trả thấp nhất (7.718 đồng/ha) theo quy định; chi cao hơn kế hoạch được UBND tỉnh phê duyệt; còn áp dụng hình thức thanh toán tiền mặt, thiếu thông tin cá nhân người được chi trả. Công ty Nhiệt điện Uông Bí (Quảng Ninh) chưa thống nhất ký hợp đồng ủy thác thu dịch vụ môi trường rừng, chưa đăng ký kế hoạch, chưa nộp tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng các năm 2020, 2021, 2022.

Một số đơn vị được phê duyệt phương án nộp tiền trồng rừng thay thế tại Quảng Ninh, Bắc Giang, Hải Dương còn tình trạng chưa nộp, chậm nộp tiền trồng rừng thay thế.

Kết quả kiểm tra chọn mẫu hồ sơ nghiệm thu, thanh toán kinh phí trồng rừng thay thế tại Quảng Ninh, Hải Dương và kiểm tra đối chiếu tại Bắc Giang cho thấy hồ sơ ký kết hợp đồng nhân công, cây giống, phân bón còn chưa chặt chẽ. Hồ sơ nghiệm thu thanh toán chưa thể hiện đủ số nhân công cần thiết để thực hiện công việc theo hồ sơ thiết kế kỹ thuật và dự toán, chưa có tài liệu nghiệm thu, bàn giao phân bón, cây giống trước khi thực hiện trồng, chăm sóc rừng. Hồ sơ nghiệm thu thể hiện công việc vận chuyển, bón phân trước thời điểm bàn giao phân bón; trồng cây trước thời điểm giao nhận cây giống…; hồ sơ thiết kế kỹ thuật dự toán chưa đảm bảo yêu cầu kỹ thuật.

Kết quả kiểm toán nêu trên cho thấy công tác quản lý, sử dụng Quỹ bảo vệ và phát triển rừng vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt, việc trồng rừng thay thế chưa đảm bảo tính khả thi. Hạn chế này bắt nguồn từ những bất cập trong cơ chế, chính sách hiện hành…

Bài 2: Quản lý, sử dụng quỹ Bảo vệ và phát triển rừng: Xem xét trách nhiệm đối với từng tập thể và cá nhân 

Cùng chuyên mục
Công bố kết quả kiểm toán quản lý, sử dụng Quỹ bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2020-2022