
Thời điểm chín muồi
Tổng Bí thư Tô Lâm - người khởi động công cuộc vươn mình của dân tộc đã khẳng định kỷ nguyên mới sẽ là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong thời kỳ mới, nhiệm vụ ưu tiên là hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược: Đến năm 2030, đưa Việt Nam trở thành quốc gia đang phát triển với nền công nghiệp hiện đại và thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, vươn lên trở thành quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa với thu nhập cao.
Đảng lựa chọn thời điểm Đại hội XIV là vạch xuất phát của một giai đoạn bứt tốc có ý nghĩa chiến lược, bởi đây là thời điểm Đảng ta tổng kết 40 năm Đổi mới (1986-2026), kế thừa và phát huy những thành tựu vẻ vang đã đạt được, đồng thời kiên quyết loại bỏ những “ung nhọt”, khắc phục những hạn chế, cởi trói chính sách, tháo gỡ vướng mắc để tạo sức bật mạnh mẽ vươn lên.
Nhìn vào thực tế hiện nay, việc lựa chọn thời điểm đó là kịp thời, bởi nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả những nước có cùng điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng với nước ta đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề phức tạp như mặt trái của nền kinh tế thị trường, các bất đồng xã hội, bất bình đẳng, công bằng… gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hòa bình và phát triển của thế giới, trở thành rào cản tăng trưởng, trực tiếp thúc đẩy khủng hoảng kinh tế - xã hội trên quy mô toàn cầu.
Đối với tình hình trong nước, sự phát triển và chuyển mình của Việt Nam sau bốn thập kỷ đổi mới là rất ngoạn mục, những thành tựu đạt được đã góp phần cải thiện rõ rệt chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tuy vậy, sự suy thoái về đạo đức, phẩm chất chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên; nạn tham nhũng, lãng phí đã làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, làm sụt giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Bên cạnh đó, nền kinh tế của nước ta đang trong giai đoạn phục hồi và phải chịu đựng nhiều di chứng của đại dịch COVID-19 để lại cùng các tác động bất lợi từ tình hình bất ổn của thế giới như xung đột vũ trang ở nhiều nơi, leo thang thuế quan giữa các cường quốc… gây cản trở sự vận hành của chuỗi thương mại quốc tế mà Việt Nam đang là một mắt xích quan trọng.
Ngoài ra, áp lực tài khóa đang ngày càng gia tăng khi theo đuổi chính sách mở rộng chi tiêu nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Việc tăng mạnh chi đầu tư công, nới rộng bội chi ngân sách và đẩy mạnh phát hành trái phiếu chính phủ đã góp phần hỗ trợ tổng cầu, sẽ đặt ra vấn đề về tính bền vững của ngân sách trong trung và dài hạn.
Mặc dù tỷ lệ nợ công hiện vẫn trong ngưỡng an toàn nhưng tốc độ huy động vốn nhanh cùng với chi phí lãi vay tăng và hiệu quả giải ngân chưa cao có thể dẫn đến rủi ro tài chính nếu không được kiểm soát tốt. Thêm vào đó, việc miễn, giảm và gia hạn nhiều sắc thuế khiến nguồn thu ngân sách chịu sức ép lớn, trong khi chi thường xuyên và an sinh xã hội vẫn chiếm tỷ trọng cao.
Đối với tình hình xã hội, tỷ lệ người có thu nhập thấp còn lớn, khoảng cách giàu nghèo vẫn tương đối cao, còn có sự chênh lệnh đáng kể giữa chất lượng cuộc sống ở nông thôn và thành thị. Bên cạnh đó, thời kỳ “Dân số vàng” đang trôi về bên kia dốc, tốc độ già hóa dân số tăng trong khi tỷ lệ sinh giảm, mất cân bằng giới tính khi sinh đang làm cho nguy cơ thiếu hụt lao động dần hiển hiện.
Các bất lợi trên càng tác động mạnh trong điều kiện nước ta duy trì một bộ máy hành chính cồng kềnh, nhiều thang nấc, hoạt động chồng chéo, thiếu hiệu quả và còn có quá nhiều đầu mối làm gia tăng áp lực cho gánh nặng chi thường xuyên của ngân sách nhà nước, trực tiếp làm giảm nguồn lực cho hoạt động chi đầu tư phát triển.
Vì vậy, ngay lúc này, nếu Việt Nam không có sự bứt phá toàn diện, chúng ta sẽ rơi vào bẫy thu nhập trung bình, trở nên trì trệ và đánh mất động lực, thời cơ phát triển.
Dấu ấn lịch sử cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy
Để đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển nhanh, bền vững, bứt phá, hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt chủ trương, chính sách theo tinh thần Nghị quyết 18/NQ-TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả”; đồng thời, tập trung chỉ đạo thắng lợi công cuộc tinh gọn bộ máy hành chính.
Kể từ ngày 01/7/2025, cả nước giảm từ 63 chính quyền cấp tỉnh, thành phố xuống còn 28 tỉnh và 6 thành phố trực thuộc Trung ương; chấm dứt hoàn toàn hoạt động của 696 đơn vị hành chính cấp huyện và tương đương; ngoài ra cũng tiến hành đồng bộ việc sắp xếp lại 10.035 đơn vị hành chính cấp xã, phường và tương đương xuống còn 3.321 đơn vị. Việc tinh gọn này không chỉ mang ý nghĩa thuần túy về tổ chức bộ máy, mà còn giải quyết căn cơ tình trạng manh mún, dàn trải, phân tán nguồn lực suốt nhiều thập niên.
Hoạt động này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức lại không gian phát triển kinh tế - xã hội một cách bài bản và chiến lược hơn, phát huy lợi thế vùng, giảm cạnh tranh nội bộ không cần thiết, tập trung đầu tư hạ tầng, y tế, giáo dục, công nghệ và thu hút nguồn vốn hiệu quả. Đồng thời, việc tổ chức lại địa giới hành chính theo hướng hiện đại hóa còn góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển giữa đô thị và nông thôn, vùng thuận lợi và vùng khó khăn, từng bước nâng cao chất lượng sống đồng đều cho người dân.
Không chỉ sắp xếp lại chính quyền địa phương, trước đó, từ ngày 01/3/2025, bộ máy các cơ quan Đảng, các bộ, ngành thuộc Chính phủ, cơ quan của Quốc hội và hệ thống các tổ chức chính trị xã hội, ban ngành, đoàn thể từ trung ương đến địa phương đã được sắp xếp tinh gọn, làm giảm đáng kể đầu mối thụ hưởng ngân sách nhà nước, mở ra dư địa lớn cho việc cơ cấu lại ngân sách theo hướng linh hoạt, chủ động và ưu tiên cho các lĩnh vực an sinh xã hội, đầu tư công hiệu quả.
Cùng với việc tinh gọn bộ máy trung ương, việc phân cấp, phân quyền, phân chia lại nhiệm vụ giữa các cơ quan, tổ chức, ban, ngành đã chấm dứt tình trạng chồng chéo chức năng trong quản lý, thiết lập nguyên tắc rõ trách nhiệm, rõ quyền hạn, rõ nguồn lực, qua đó khắc phục triệt để tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm. Việc này không chỉ nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cấp, các ngành, mà còn rút ngắn quy trình xử lý công việc, tạo điều kiện để bộ máy công quyền hoạt động linh hoạt, kịp thời hơn trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập sâu rộng.
Có thể thấy, với quyết tâm chính trị lớn, sự đồng thuận cao trong xã hội, cùng sự chỉ đạo sát sao, linh hoạt và khoa học của Đảng, cuộc cách mạng tổ chức bộ máy đã được triển khai quyết liệt, đồng bộ. Với cuộc đổi mới hành chính mang tính lịch sử này, Việt Nam đã sẵn sàng bước vào giai đoạn bứt tốc phát triển.
Kiểm soát các hệ lụy phát sinh từ quá trình tinh gọn bộ máy
Tuy nhiên, việc sắp xếp, giảm số cơ quan, đơn vị vốn dĩ là một việc rất khó khăn phức tạp, trực tiếp tác động đến tâm tư, tình cảm và đời sống của cán bộ đảng viên, công chức, viên chức, người lao động, ít nhiều tạo ra những xáo trộn trong đời sống xã hội ở nước ta. Công cuộc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy nếu không được thực hiện công khai, minh bạch, đúng quy định cũng dễ dẫn đến những biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ và hơn nữa là các thế lực thù địch có cơ hội xuyên tạc, chống phá.
Nhận thức được những phức tạp phát sinh và với tinh thần kiên quyết kiên trì, dưới sự chỉ đạo quyết liệt và sát sao của Tổng Bí thư Tô Lâm cùng Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt cơ chế, chính sách nhằm kiểm soát và hóa giải hiệu quả các hệ lụy phát sinh từ quá trình tinh gọn bộ máy.
Trước hết là việc ban hành quy định mới về công tác cán bộ, siết chặt quy trình bổ nhiệm, luân chuyển, đánh giá, quy hoạch, bãi nhiệm cán bộ, đảm bảo nguyên tắc “trung thành, trong sạch, gương mẫu, hiệu quả”, loại bỏ tình trạng vận động ngầm, mua bán quyền lực.
Các cơ quan kiểm tra, giám sát, đặc biệt là Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Thanh tra Chính phủ và Bộ Công an đã vào cuộc mạnh mẽ, kiên quyết xử lý các biểu hiện cục bộ, bè phái, phe cánh, đảm bảo sự công khai minh bạch trong công tác tổ chức cán bộ, tạo dựng niềm tin trong nhân dân.
Cùng với đó, Đảng ta cũng kịp thời ban hành các chính sách hỗ trợ, bảo đảm quyền lợi chính đáng của cán bộ, công chức, viên chức bị ảnh hưởng từ quá trình sáp nhập - giải thể - tinh gọn. Trong đó, nổi bật là các chính sách tinh giản biên chế gắn với đảm bảo sinh kế, an sinh lâu dài, chuyển đổi nghề nghiệp, bố trí lại công việc phù hợp năng lực, trình độ cho đội ngũ dôi dư.
Việc xây dựng lộ trình sáp nhập và hợp nhất được tiến hành khoa học, có đánh giá tác động, lấy ý kiến rộng rãi từ người dân và cán bộ cơ sở, nhằm tạo sự đồng thuận cao trong toàn xã hội. Công cuộc chuyển đổi số quốc gia được đẩy mạnh, đóng vai trò “xương sống” hỗ trợ các địa phương sau sáp nhập sớm ổn định tổ chức và vận hành hiệu quả.
Đảng, Nhà nước đã kiên định cải cách toàn diện thể chế, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp cùng hàng loạt bộ luật cơ bản như Luật Ngân sách nhà nước, Luật Cán bộ công chức, Luật Tổ chức Chính quyền địa phương… cùng các nghị định, thông tư, văn bản quy phạm pháp luật liên quan để nhấn mạnh vai trò của pháp quyền XHCN, lấy kỷ cương, kỷ luật và pháp luật làm nền tảng, đảm bảo mọi tổ chức, cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật.
Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội hậu sáp nhập được điều chỉnh phù hợp đặc điểm từng vùng, từng địa phương mới, ưu tiên đầu tư cho kết cấu hạ tầng, y tế, giáo dục, giao thông và dịch vụ công, đảm bảo không để người dân bị thiệt thòi trong quá trình chuyển đổi.
Ngoài ra, trên mặt trận tư tưởng, Đảng đã sử dụng hiệu quả công cụ báo chí để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, truyền thông số, mạng xã hội nhằm thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về mục tiêu, ý nghĩa và hiệu quả của công cuộc cải cách. Qua đó, góp phần to lớn bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đi đôi với nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào đường lối lãnh đạo của Đảng.
Tất cả những nỗ lực trên cho thấy quyết tâm chính trị rất lớn của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay nhằm đổi mới căn cơ, toàn diện bộ máy nhà nước, vì một nền hành chính tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, phục vụ nhân dân. Thành quả bước đầu đã minh chứng cho tầm nhìn chiến lược và năng lực tổ chức thực hiện của Đảng ta, mở ra một giai đoạn phát triển mới cho đất nước - nhanh hơn, mạnh hơn và bền vững hơn, tiến tới hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường./.