Nhiều yếu kém và bất cập tại các đơn vị SNCL
Hiện nay, chưa kể đến các tổ chức, biên chế trong ngành công an, quân đội và khu vực DNNN, cả nước đã có khoảng 58 nghìn đơn vị SNCL với 2,5 triệu biên chế, giữ vai trò chủ đạo, cung cấp hầu hết dịch vụ sự nghiệp công, liên quan đến mọi người, mọi nhà, như: dịch vụ y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa, thể dục thể thao...
Theo ông Bùi Anh Bình - Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính Hành chính sự nghiệp, Bộ Tài chính - quá trình đổi mới chính sách tài chính đơn vị SNCL bắt đầu từ năm 2002 đến nay đã đạt được một số kết quả bước đầu. Tuy nhiên, các định mức kinh tế - kỹ thuật còn thiếu nên gây khó khăn trong việc xác định đơn giá đặt hàng, đấu thầu cũng như trong quá trình quản lý, lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công rất chậm. Theo Nghị định số 16/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị SNCL, năm 2016, các đơn vị phải tính đủ chi phí trực tiếp vào tiền lương; năm 2018, phải tính đủ chi phí quản lý và năm 2020 tính đủ chi phí khấu hao.Thế nhưng cho đến nay, lộ trình giá đối với đơn vị sự nghiệp y tế chỉ mới xây dựng bước đầu; còn tiêu chuẩn dịch vụ và các tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ công thì chưa được xây dựng, trong khi đây là cơ sở để cấp kinh phí hoạt động và sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp công hoạt động kém hiệu quả. Cơ chế quản lý, cấp phát NSNN phần lớn vẫn theo yếu tố đầu vào như biên chế và tiền lương. Khi mở dịch vụ qua hoạt động liên doanh, liên kết, một số đơn vị chỉ chạy theo số lượng dịch vụ mà không quan tâm đến chất lượng, lạm dụng kỹ thuật để tăng thu. Vấn đề giao tài sản cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn như DN còn chậm, việc sử dụng tài sản công còn phân tán, có nơi lãng phí, hiệu suất thấp, đặc biệt là nhà đất. Chính sách khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở ngoài công lập về vốn tín dụng ưu đãi và đất đai chưa thực sự bình đẳng…
Vì vậy, theo ông Bình, các đơn vị SNCL cần được đẩy mạnh quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện về tài chính, gắn với việc tăng cường quản trị nội bộ và kiểm tra của Nhà nước, giám sát của người dân và xã hội. Phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công, bình đẳng giữa đơn vị SNCL và đơn vị ngoài công lập; cung ứng dịch vụ với chất lượng cao, nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ cho mọi người dân, đồng thời giảm chi phí hỗ trợ trực tiếp cho các đơn vị sự nghiệp công, tạo điều kiện tái cơ cấu lại NSNN, tạo nguồn để cải cách tiền lương.
Trong lĩnh vực giáo dục, y tế, Báo cáo “Đánh giá chi tiêu công Việt Nam: Chính sách tài khóa hướng tới bền vững, hiệu quả và công bằng” do Bộ Tài chính và Ngân hàng Thế giới công bố đã đưa ra nhận định: hiệu suất sử dụng nguồn nhân lực trong các ngành này chưa cao. Cụ thể là, thời lượng đứng lớp bình quân của giáo viên các cấp phổ thông ở Việt Nam thuộc hàng thấp nhất trong khối ASEAN (riêng tiểu học thấp hơn mức bình quân của ASEAN 25%). Quá trình giao biên chế, tuyển dụng viên chức của ngành giáo dục chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa Bộ và Sở nội vụ, các Bộ và sở chuyên ngành, HĐND và thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp, dẫn đến số lượng và cơ cấu viên chức không khớp với nhu cầu sử dụng của các đơn vị ở cả cấp trung ương và địa phương. Đặc biệt, hầu hết các trường trung học cơ sở đều có tình trạng dôi dư giáo viên, chủ yếu do sự bất cập giữa các bộ môn cũng như giữa các trường.
Tương tự, trong lĩnh vực y tế, mặc dù Việt Nam có tỷ lệ chi tiêu y tế so với GDP cao so với nhiều nước trong khu vực nhưng lại chưa đạt được kết quả tối ưu, việc mua sắm phi tập trung đã dẫn tới tình trạng chênh lệch giá giữa các địa phương. Năm 2010, chi tiêu cho dược phẩm chiếm 43% tổng chi cho y tế, bằng 2,7% GDP, chiếm tới 60% tổng mức chi trả của bảo hiểm y tế. Bên cạnh đó, số lần thăm khám bệnh nhân trung bình của một bác sĩ ở Việt Nam mỗi năm cũng ít hơn so với quốc gia khác. Đặc biệt, hiệu suất thăm khám ở tuyến huyện và xã còn thấp dẫn đến tình trạng không khai thác hết công suất ở tuyến cơ sở và quá tải đối với tuyến tỉnh và tuyến trung ương. Theo Báo cáo, Việt Nam còn có khả năng nâng cao hiệu suất sử dụng nguồn nhân lực này…
Tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định, việc đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các đơn vị SNCL là hết sức cần thiết, có ý nghĩa chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nhân văn sâu sắc, góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta. Tổng Bí thư đề nghị Trung ương tập trung phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện tình hình, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, từ đó đề ra quan điểm, mục tiêu và định hướng tiếp tục đẩy mạnh đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng dịch vụ và hiệu quả hoạt động của các đơn vị SNCL gắn với bảo đảm ổn định chính trị, xã hội nói chung cũng như từng ngành, lĩnh vực nói riêng.
Đổi mới các đơn vị SNCL là nhiệm vụ trọng tâm được ưu tiên trong thời gian tới
Sau khi xem xét và thảo luận về Đề án "Đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính và tổ chức lại hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập", Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thông qua Nghị quyết về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Đây được xem là một nhiệm vụ trọng tâm, được Đảng và Nhà nước ưu tiên hàng đầu trong thời gian tới.
Trung ương yêu cầu, các đơn vị SNCL phải khẩn trương sắp xếp, đổi mới tổ chức và hoạt động phù hợp với đặc điểm tình hình của từng ngành, lĩnh vực và địa bàn, gắn với đẩy mạnh xã hội hóa, nhưng không thương mại hóa lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công. Đẩy mạnh việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp kinh tế, sự nghiệp khoa học - công nghệ có đủ điều kiện thành DN, bao gồm cả hình thức công ty cổ phần. Đổi mới, tăng cường chế độ kế toán, hạch toán, kiểm toán, kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với các đơn vị SNCL tương tự như đối với DNNN.
Giảm mạnh sự can thiệp hành chính của cơ quan chủ quản vào hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của đơn vị SNCL; từng bước tiến tới xoá bỏ "chủ quản" theo cơ chế cũ. Xây dựng, ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật đối với từng loại hình dịch vụ sự nghiệp công; tiêu chí phân loại các đơn vị SNCL; tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và chất lượng dịch vụ sự nghiệp công của đơn vị SNCL theo ngành, lĩnh vực; hệ thống tiêu chuẩn chức danh những người làm việc trong đơn vị SNCL. Kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp làm chậm, cố tình trốn tránh hoặc không thực hiện nhiệm vụ được giao và vi phạm các quy định. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện của các đơn vị cung ứng dịch vụ sự nghiệp công…
Để thực hiện chủ trương nói trên, ông Bùi Anh Bình cho rằng: Bộ Tài chính cần đổi mới chính sách tài chính trong cung cấp dịch vụ công. Cụ thể là hoàn thiện văn bản pháp luật về cơ chế tự chủ đối với các đơn vị SNCL theo hướng tăng cường phân cấp và tăng tính chủ động cho các đơn vị này. Các Bộ, ngành, địa phương cần quyết liệt sắp xếp, giải thể, sáp nhập, tinh giản đầu mối, biên chế; ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN, ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật làm cơ sở xác định chất lượng, giá dịch vụ công.
Giao quyền tự chủ tài chính cho đơn vị, tăng số đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên, chi đầu tư, song phải quy định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi, phân phối thu nhập bổ sung.
Chuyển mạnh cơ chế cấp phát theo dự toán sang cơ chế thanh toán theo đặt hàng, giao nhiệm vụ gắn với số lượng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, có lộ trình cụ thể để thực hiện cơ chế đấu thầu cung cấp dịch vụ, tạo điều kiện cho cơ sở ngoài công lập cùng tham gia cung cấp các dịch vụ công mang tính đặc thù.
Đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi từ phí sang thực hiện giá dịch vụ sự nghiệp công theo hướng Nhà nước quy định khung giá, từng bước tính đủ các chi phí đối với các loại dịch vụ cơ bản, thiết yếu. Đối với giá dịch vụ công không sử dụng NSNN, cần giao quyền tự chủ cho các đơn vị quyết định theo nguyên tắc đảm bảo bù đắp chi phí và có tích lũy theo quy định về giá.
Thực hiện cơ cấu lại chi thường xuyên theo hướng giảm cấp chi thường xuyên trực tiếp đối với các khoản chi đã được kết cấu vào dịch vụ, dành nguồn hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo, đối tượng chính sách; tạo điều kiện hỗ trợ các đơn vị ngoài công lập trong việc đầu tư, nâng cao chất lượng dịch vụ; cho phép cổ phần hóa đối với đơn vị sự nghiệp có đủ điều kiện, gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Báo cáo “Đánh giá chi tiêu công Việt Nam: Chính sách tài khóa hướng tới bền vững, hiệu quả và công bằng” thì đưa ra khuyến nghị: Việc phân bổ giữa các lĩnh vực trong ngành giáo dục cần được cân đối lại để nâng cao cơ hội tiếp cận công bằng hơn ở cấp học mầm non và phổ thông. Trong chu kỳ ổn định ngân sách 2016-2020, trung ương nên phân bổ ngân sách chi thường xuyên cho các tỉnh theo dân số trong độ tuổi, còn các tỉnh phân bố theo số học sinh nhập học. Sau năm 2020, việc phân bổ ngân sách chi thường xuyên cho các tỉnh sẽ theo số học sinh nhập học.
Theo Báo cáo này, đội ngũ giáo viên và chương trình giáo dục cũng cần được cơ cấu lại để thời lượng giảng dạy của giáo viên có thể được nâng lên, nhất là đối với cấp phổ thông cơ sở. Muốn khắc phục tình trạng dôi dư giáo viên, các cơ quan liên quan cần xây dựng kế hoạch tuyển dụng trong trung hạn để cân đối giữa cung và cầu, nâng cao tự chủ cho các đơn vị hành chính sự nghiệp đối với vấn đề tuyển dụng và sử dụng lao động, đồng thời phải đặt việc tinh giản, cơ cấu lại bộ máy và biên chế khu vực công là giải pháp chính trong tổng thể cải cách hành chính công.
Để nâng cao hiệu quả chi tiêu công trong ngành y tế, giảm chi phí thuốc cho người dân, Nhà nước cần hình thành và triển khai một cách thận trọng cơ chế mua sắm tập trung cấp quốc gia, đàm phán giá dược phẩm, đồng thời cân nhắc tăng cường năng lực cho cơ quan bảo hiểm xã hội (hoặc một tổ chức khác) về vấn đề giám sát cũng như đánh giá độc lập đối với các chi phí sử dụng dịch vụ y tế.
MINH ANH
Theo Đặc san Kiểm toán số tháng 10/2017