Khi luật trở thành “vòng kim cô”
Hiện tại, Điều 50 Luật BVTV hiện hành quy định: tổ chức, cá nhân trong nước muốn đăng ký thuốc BVTV phải sản xuất hoạt chất, thuốc kỹ thuật hoặc sản xuất thuốc thành phẩm từ thuốc kỹ thuật. Trên thực tế, đa số doanh nghiệp Việt Nam nhập hoạt chất từ các nhà cung cấp đạt chuẩn quốc tế rồi bào chế thành phẩm phù hợp với khí hậu và canh tác trong nước. Tuy nhiên, theo cách hiểu hiện nay, nhóm này lại không đủ điều kiện để đăng ký.

Ông Nguyễn Văn Sơn, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thuốc BVTV Việt Nam (VIPA), cho rằng quy định này giống như một “vòng kim cô” khiến doanh nghiệp nội khó phát triển. Ngành thuốc BVTV toàn cầu vận hành theo chuỗi chuyên môn hóa, với các khâu riêng biệt như sản xuất hoạt chất, bào chế và tiêu thụ. Việc buộc doanh nghiệp đảm nhận toàn bộ quy trình là bất hợp lý
Luật BVTV được Quốc hội thông qua từ năm 2013, có hiệu lực từ 2015 và được sửa đổi năm 2018. Tuy nhiên, qua gần một thập kỷ triển khai, nhiều nội dung không còn phù hợp với thực tiễn sản xuất, kinh doanh thuốc BVTV. Từ khi có kế hoạch lấy ý kiến sửa luật, VIPA đã liên tục tổ chức các cuộc họp, đối thoại với cơ quan quản lý để nêu rõ những bất cập cần điều chỉnh.
Đề xuất cho phép đăng ký thuốc thành phẩm
Theo VIPA, cụm từ “sản xuất thuốc thành phẩm từ thuốc kỹ thuật” trong Điều 50 gây hiểu nhầm rằng chỉ những doanh nghiệp đồng thời làm cả hai khâu mới được đăng ký. Trong khi đó, thực tế ở Việt Nam chỉ cấp giấy chứng nhận cho thuốc thành phẩm chứ không đăng ký hoạt chất hay thuốc kỹ thuật. Doanh nghiệp sản xuất thành phẩm mới là đơn vị chịu trách nhiệm pháp lý với sản phẩm đưa ra thị trường.

Nhiều quốc gia đã áp dụng mô hình hai cấp: phê duyệt hoạt chất và đăng ký thuốc thành phẩm. Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc đều cho phép nhiều công ty cùng đăng ký sản phẩm sử dụng chung hoạt chất nếu có dữ liệu đầy đủ hoặc được ủy quyền. Như vậy, việc yêu cầu doanh nghiệp thành phẩm phải tự sản xuất thuốc kỹ thuật không những gây khó khăn mà còn làm mất đi tính linh hoạt của chuỗi cung ứng.
Chính vì vậy, VIPA kiến nghị sửa khoản 1 Điều 50 theo hướng “Tổ chức, cá nhân trong nước được phép sản xuất hoạt chất hoặc thuốc thành phẩm”. Thay đổi này sẽ mở rộng quyền đăng ký, khuyến khích nghiên cứu công thức phù hợp với đặc thù sản xuất nông nghiệp Việt Nam.
Ngăn chặn kẽ hở từ văn phòng đại diện
Một vấn đề khác là khoản 2 Điều 50 cho phép doanh nghiệp nước ngoài có văn phòng đại diện tại Việt Nam được quyền đăng ký thuốc BVTV. Theo phản ánh của doanh nghiệp nội, cơ chế này tạo ra bất bình đẳng: nhiều đơn vị ngoại không trực tiếp sản xuất, không đóng thuế, nhưng vẫn được đưa sản phẩm ra thị trường. Điều này vừa gây thất thu ngân sách, vừa khiến việc xử lý trách nhiệm pháp lý khi có vi phạm trở nên khó khăn.
Thậm chí, không ít doanh nghiệp trong nước phải mua ủy quyền từ đối tác nước ngoài với giá cao, làm đội chi phí, giảm sức cạnh tranh. Trong khi đó, nhiều quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Lào, Campuchia đều yêu cầu doanh nghiệp ngoại phải có công ty hoặc chi nhánh hoạt động thực sự tại địa phương mới được đăng ký.
Vì vậy, VIPA kiến nghị sửa khoản 2 Điều 50 theo hướng: “Tổ chức, cá nhân nước ngoài chỉ được phép đăng ký thuốc BVTV nếu có công ty hoặc chi nhánh hoạt động tại Việt Nam.” Đây được xem là biện pháp để bảo đảm công bằng, minh bạch, đồng thời siết chặt trách nhiệm pháp lý đối với sản phẩm lưu hành.
Thuốc BVTV là mặt hàng đặc biệt, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng nông sản và an toàn môi trường. Do đó, quản lý cần chặt chẽ nhưng cũng phải tạo điều kiện cho đổi mới. Nếu Điều 50 được sửa đổi như đề xuất, doanh nghiệp trong nước sẽ chủ động hơn trong nghiên cứu, sản xuất, từng bước giảm phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu.
Sự thay đổi cũng giúp nâng cao sức cạnh tranh của ngành BVTV Việt Nam, đồng thời hài hòa với thông lệ quốc tế, tương tự cách quản lý trong ngành dược phẩm. Các doanh nghiệp kỳ vọng, dự thảo Luật sửa đổi sẽ sớm được trình Quốc hội trong kỳ họp tới để tháo gỡ nút thắt lớn nhất đã tồn tại gần một thập kỷ.