Quang cảnh Tọa đàm “Hiệu lực, hiệu quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong hoạt động kiểm toán của KTNN - thực trạng và vấn đề đặt ra” do KTNN tổ chức ngày 19/5. Ảnh: Nguyễn Lộc - Nguyễn Ly |
5 nhân tố tác động đến hiệu quả, hiệu lực phòng, chống tham nhũng của Kiểm toán nhà nước
Theo PGS,TS. Trương Thị Hồng Hà - Phó Vụ trưởng Vụ Cải cách tư pháp, Ban Nội chính Trung ương - hoạt động kiểm toán của KTNN đã góp phần tạo nên một cơ chế đấu tranh PCTN đặc thù, có hiệu quả thiết thực.
Thông qua việc tham gia công tác PCTN một cách hiệu quả, KTNN đã nâng cao vị thế, đồng thời tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong phương thức đấu tranh, nâng cao bản lĩnh chính trị, rèn luyện đội ngũ ngày càng vươn lên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị.
PGS, TS. Trương Thị Hồng Hà - Phó Vụ trưởng Vụ Cải cách tư pháp, Ban Nội chính Trung ương - nhấn mạnh 5 nhân tố chủ yếutác động đến hiệu quả, hiệu lực PCTN của KTNN.Ảnh: Nguyễn Lộc - Nguyễn Ly |
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, KTNN vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, làm ảnh hưởng đến công tác PCTN, lãng phí. Vì vậy, để nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả hoạt động kiểm toán, KTNN cần phải xác định những nhân tố tác động để có giải pháp hoàn thiện, góp phần đáp ứng yêu cầu của công tác PCTN.
Theo đó, nhân tố đầu tiên là pháp lý và hệ thống pháp luật của quốc gia. Mục đích PCTN của KTNN phụ thuộc nhiều vào sự tương tác qua lại và thường xuyên giữa KTNN và hệ thống các quy định pháp luật.
Quan hệ giữa hiệu quả, hiệu lực của KTNN với chất lượng của hệ thống pháp luật là quan hệ nhân quả, tương tác hai chiều.
Trong đó, pháp luật là cơ sở để KTNN tiến hành kiểm toán, phát hiện kịp thời, ngăn chặn PCTN, còn KTNN là một thiết chế nâng cao chất lượng pháp luật. Một hệ thống pháp luật tốt sẽ là nhân tố thúc đẩy KTNN trở thành cơ quan phát huy tốt vai trò PCTN.
Thứ hai là yếu tố chính trị, bao gồm các quan điểm, tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng (phương thức, nội dung, lề lối làm việc) tạo ra môi trường chính trị, quan hệ chính trị, ý thức chính trị, hoạt động chính trị… Vai trò của KTNN đối với công cuộc PCTN được phát huy trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng không ngừng được đổi mới.
Thứ ba là yếu tố kinh tế, thể hiện thông qua hệ thống các quan điểm, chủ trương về xây dựng và phát triển nền kinh tế, hệ thống chính sách, pháp luật về kinh tế, cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ hoạt động kiểm toán...
Sự phát triển và hoàn thiện cơ chế kinh tế tác động tích cực đến KTNN nói chung, hướng ngành kiểm toán tiếp cận, hòa nhập với chuẩn mực, nguyên tắc, thông lệ phổ biến của các nước trên thế giới.
Thứ tư là yếu tố văn hoá - xã hội với các đặc điểm, truyền thống, giá trị văn hóa nói chung và lối sống, truyền thống của ngành kiểm toán nói riêng; điều kiện, hoàn cảnh xã hội, đặc điểm của đối tượng kiểm toán; hệ thống chính sách, pháp luật về văn hóa - xã hội…
Trong đó, văn hóa kiểm toán tạo nên uy tín, bản lĩnh và sự tích cực trong việc phát triển nghề nghiệp, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả các mặt công tác, nhất là trong hoạt động kiểm toán nhằm PCTN, lãng phí.
Cuối cùng là yếu tố tổ chức thể hiện ở vị thế độc lập của KTNN đã được quy định trong Hiến pháp. Bên cạnh đó, tính độc lập còn thể hiện trong quá trình tổ chức cán bộ theo hướng hiện đại, chuyên môn hóa cao, tăng tính chuyên nghiệp trong hoạt động kiểm toán; phân cấp quản lý rõ ràng, hợp lý; tăng cường hội nhập phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thực tế cho thấy, nếu không đề cao yếu tố tổ chức thì hoạt động của KTNN trở nên lạc hậu, phân tán, và khó đạt được mục đích PCTN trong nội bộ ngành và với đối tượng kiểm toán.
Giai đoạn 2016-2021, thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN đã chuyển 20 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật sang cơ quan Cảnh sát điều tra để điều tra làm rõ và xử lý theo quy định; 2 vụ việc đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Công an điều tra xử lý. KTNN đã cung cấp 498 hồ sơ, báo cáo kiểm toán và các tài liệu liên quan cho cơ quan của Quốc hội, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cơ quan điều tra và các cơ quan nhà nước khác có thẩm quyền (tăng gần 5 lần so với giai đoạn trước) để phục vụ công tác điều tra, kiểm tra, giám sát. Ngoài ra, KTNN đã kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ 786 văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quản lý sai quy định hoặc không phù hợp với quy định chung của Nhà nước và thực tiễn, kịp thời khắc phục lỗ hổng về cơ chế, chính sách, tránh thất thoát, lãng phí, siết chặt kỷ cương, kỷ luật tài chính, góp phần làm lành mạnh nền tài chính quốc gia. |
Xây dựng tiêu chí đánh giá hiệu lực, hiệu quả phòng chống tham nhũng
Có thể thấy, KTNN ngày càng thể hiện rõ vai trò quan trọng trong công tác PCTN, lãng phí theo định hướng của Đảng và Nhà nước. Sự hoàn thiện của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã củng cố thêm vị thế của KTNN, hiệu lực và hiệu quả thực hiện kiến nghị kiểm toán cũng gia tăng đáng kể qua thời gian cả về số lượng và chất lượng.
TS. Vũ Thanh Hải - Vụ trưởng Vụ Pháp chế, KTNN - chia sẻ một số khó khăn, vướng mắc khi thực hiện công tác PCTN thông qua hoạt động kiểm toán.Ảnh: Nguyễn Lộc -Nguyễn Ly |
Tuy nhiên, theo TS. Vũ Thanh Hải - Vụ trưởng Vụ Pháp chế, KTNN, việc thực hiện kiến nghị kiểm toán mặc dù chuyển biến tích cực song vẫn còn những khó khăn, vướng mắc. Công tác xử lý trách nhiệm các tổ chức, cá nhân đối với các sai phạm chưa đầy đủ và nghiêm minh làm giảm hiệu lực kiểm toán.
Thêm vào đó, sự phối hợp giữa KTNN với các cơ quan nhà nước, nhất là các cơ quan tố tụng trong việc xử lý các vụ việc có dấu hiệu tội phạm, tham nhũng được phát hiện thông qua hoạt động kiểm toán vẫn chưa được thực hiện thường xuyên.
Nguyên nhân dẫn đến các hạn chế trên là do các quy định của pháp luật liên quan tới việc phát hiện, phối hợp xử lý tham nhũng còn nhiều vướng mắc; việc phát hiện các vụ việc có hành vi tham nhũng, lãng phí cấu thành tội phạm để chuyển cơ quan điều tra còn ít do đặc thù hoạt động, phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ của KTNN.
Ngoài ra, nguồn nhân lực của KTNN chưa đủ so với kế hoạch biên chế nên khó để thực hiện kiểm toán thường niên theo mục tiêu chiến lược đặt ra và tăng cường hiệu quả PCTN, lãng phí thông qua hoạt động kiểm toán.
Tại Tọa đàm “Hiệu lực, hiệu quả PCTN, lãng phí trong hoạt động kiểm toán của KTNN - thực trạng và vấn đề đặt ra” do KTNN tổ chức ngày 19/5, các đại biểu đều cho rằng, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả PCTN, lãng phí, KTNN cần xây dựng và hoàn thiện đầy đủ các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật KTNN; hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật và những quy định về việc phát hiện, phối hợp xử lý tham nhũng thông qua hoạt động kiểm toán.
KTNN cần tập trung kiểm toán các lĩnh vực, đối tượng kiểm toán tiềm ẩn nhiều nguy cơ tham nhũng, lãng phí; kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán theo quy định của pháp luật; theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, báo cáo công khai, kịp thời tình hình thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán đối với các đơn vị được kiểm toán và các cơ quan khác có liên quan.
Tăng cường phối hợp giữa KTNN với với các cơ quan có chức năng đấu tranh PCTN, nhất là các cơ quan tố tụng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Đồng thời, tích cực phối hợp với các bộ, ngành, cấp ủy và chính quyền địa phương nhằm giúp các đơn vị được kiểm toán nâng cao hiệu quả quản lý, giám sát, điều hành tài chính công, tài sản công.
Cùng với đó, đội ngũ công chức KTNN cần tinh gọn, đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng và có cơ cấu hợp lý. 100% kiểm toán viên, công chức trực tiếp tham gia hoạt động kiểm toán có khả năng phân tích, tổng hợp và đánh giá chính sách kinh tế vĩ mô, tương xứng với yêu cầu của nghề nghiệp kiểm toán, chuẩn mực quốc tế.
Đáng lưu ý, kiến nghị tại Tọa đàm,ThS. Nguyễn Đức Tín - Kiểm toán trưởng KTNN khu vực V - nhấn mạnh: KTNN cần xây dựng một hệ thống tiêu chí để đánh giá hiệu lực, hiệu quả PCTN, lãng phí của KTNN.
Theo đó, hệ thống tiêu chí sẽ đánh giá việc lãnh đạo, chỉ đạo; tuyên truyền, phổ biến giáo dục; xây dựng và thực hiện các chính sách pháp luật về PCTN, lãng phí; đánh giá việc thực hiện các giải pháp phòng ngừa tham nhũng trong hoạt động của KTNN.
Hệ thống này cũng sẽ đánh giá kết quả phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng; các bất cập, lỗ hổng về cơ chế chính sách; kết quả xử lý trách nhiệm của người đứng đầu; kết quả xử lý tài chính… qua hoạt động kiểm toán./.