.jpg)
Đảng bộ Quốc hội và bối cảnh, tình hình đặt ra
Đảng bộ Quốc hội là một trong sáu Đảng bộ trực thuộc Trung ương, được thành lập theo Quyết định số 244-QĐ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị, gồm 11 đảng bộ trực thuộc với hơn 2.800 đảng viên. Theo Quyết định số 250-QĐ/TW của Bộ Chính trị, Đảng ủy Quốc hội lãnh đạo, chỉ đạo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, tổ đảng Đoàn đại biểu Quốc hội và các tổ chức đảng trực thuộc theo quy định của Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của Trung ương; lãnh đạo Đảng bộ thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quốc hội; đề xuất, kiến nghị với Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư những vấn đề có liên quan đến sự lãnh đạo của Trung ương đối với Quốc hội, Đảng bộ Quốc hội.

Xuất phát từ các chức năng, nhiệm vụ cơ bản về lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao của Quốc hội theo quy định của Hiến pháp, sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng bộ Quốc hội đối với hoạt động của Quốc hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tại Phiên khai mạc Kỳ họp thứ Tám, Quốc hội khóa XV (tháng 10/2024), Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ: “Trong ba điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực thì thể chế là điểm nghẽn của điểm nghẽn...”. Điều này xuất phát từ thực tế chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, một số luật mới ban hành đã phải sửa đổi, các quy định chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo hoặc có nhiều quy định còn gây khó khăn cho việc thực thi, dẫn đến thất thoát các nguồn lực, chưa tạo môi trường thuận lợi để thu hút các nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, chưa khơi thông được nguồn lực trong dân. Điểm nghẽn về thể chế này nếu không sớm được khắc phục, sẽ làm lỡ thời cơ phát triển của đất nước. Cách đặt vấn đề trực diện của đồng chí Tổng Bí thư đòi hỏi Đảng bộ Quốc hội phải có tư duy, phương pháp lãnh đạo mới, đúng đắn, kịp thời để bảo đảm nâng cao được chất lượng công tác xây dựng pháp luật, đồng bộ với thi hành pháp luật.
Bước vào giai đoạn cuối của nhiệm kỳ khóa XIII của Đảng, với tinh thần, khí thế Cách mạng tiến công, một công cuộc cải cách “vĩ đại”, có tính lịch sử một lần nữa được phát động kể từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc Đổi mới cách đây gần 4 thập kỷ. Đây chính là thời điểm có tính “bước ngoặt” và cũng là “thời cơ vàng” nếu muốn tạo ra kỳ tích tăng trưởng thần kỳ liên tiếp để hoàn thành mục tiêu đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045.

Với mục tiêu trọng tâm là tháo gỡ cho được các vướng mắc, điểm nghẽn trong các vấn đề về thể chế phát triển đất nước, thời gian qua, Đảng ta đã ban hành một số nghị quyết có tính “trụ cột” chiến lược, trong đó phải kể đến tầm quan trọng của Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Nghị quyết đã đề ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp liên quan đến trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Quốc hội, Ban Thường vụ Đảng ủy Quốc hội. Trong đó, đã nhấn mạnh đến yêu cầu:“Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật, phát huy cao độ tính Đảng trong xây dựng và thi hành pháp luật”. Đồng thời, trong các nhóm giải pháp, nhiệm vụ được đề ra, Nghị quyết cũng yêu cầu “công tác xây dựng pháp luật phải thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng”.

Đối với Quốc hội, quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết số 66/NQ-TW, đồng chí Bí thư Đảng ủy Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã nhiều lần nhấn mạnh yêu cầu “đổi mới tư duy xây dựng pháp luật”, gắn với thể chế hóa các chủ trương của Đảng, cho thấy đây thực sự là một cuộc tự chuyển mình của Quốc hội, từ tư duy “làm luật” để quản lý nhà nước chuyển sang vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa “kiến tạo thể chế” nhằm khơi thông toàn bộ sức sáng tạo, năng lực sản xuất xã hội, để công tác xây dựng pháp luật trở thành một “đột phá của đột phá trong hoàn thiện thể chế phát triển đất nước”.
Thể chế hóa yêu cầu phát huy cao độ tính đảng trong xây dựng pháp luật
Phát huy cao độ tính đảng trong xây dựng pháp luật là vấn đề quan trọng hàng đầu để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn bộ quá trình phát triển đất nước trong tình hình mới. Từ chỗ công tác lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước chỉ được hiến định (trong quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng qua các bản Hiến pháp năm 1980, 1992 và 2013), thời gian qua, công tác lãnh đạo của Đảng đối hoạt động xây dựng pháp luật đã được tăng cường thể chế hóa bằng các quy định của luật. Ngay trong năm 2025, Quốc hội đã sửa đổi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, đã bổ sung trong Luật các nguyên tắc: (1)“Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam” (tại khoản 1 Điều 5), đây là nguyên tắc đầu tiên trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; (2) “... ; kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, phòng chống lợi ích nhóm, cục bộ...” trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm luật (tại khoản 3 Điều 5). Luật cũng đã bổ sung các quy định: về thẩm quyền của cơ quan có thẩm quyền của Đảng đối với việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp đặc biệt [1] tại Khoản 1 Điều 52 [2]; về trách nhiệm xin ý kiến các cơ quan có thẩm quyền của Đảng trong xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật (Điều 67) [3]; Đồng thời, Nghị quyết số 197/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật. Theo Khoản 4 Điều 2 của Nghị quyết xác định một trong các nhiệm vụ, hoạt động được áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt trong xây dựng pháp luật, đó là: “Theo dõi, đôn đốc việc thực hiện, thể chế hóa các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng về công tác xây dựng pháp luật”. Đây là nhiệm vụ liên quan mật thiết đến trách nhiệm của các cán bộ chuyên trách công tác Đảng và công chức trong bộ máy các cơ quan tham mưu, giúp việc các Đảng bộ trực thuộc Trung ương, trong đó có các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng ủy Quốc hội.

Bên cạnh việc thẩm tra về sự cần thiết, tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật thì còn thẩm tra về sự phù hợp của các quy định pháp luật với chủ trương, đường lối của Đảng. Nghị quyết 66-NQ/TW đã đặt ra yêu cầu: “các cấp ủy đảng phải lãnh đạo toàn diện, trực tiếp việc thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật và tăng cường kiểm tra, giám sát công tác này”, “Công tác xây dựng pháp luật phải thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng”, tức là yêu cầu về bảo đảm, phát huy tính Đảng trong xây dựng pháp luật là cao hơn nhiều so với chỉ xem xét, đánh giá về “sự phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng”.
Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm khi phát biểu tại Hội nghị quán triệt thực hiện 4 Nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 16/9 vừa qua cũng đặc biệt nhấn mạnh “5 nhất quán”, trong đó có nhất quán về pháp lý. Theo đó, phát huy cao độ tính đảng trong xây dựng pháp luật cũng là để bảo đảm nhất quán giữa khuôn khổ pháp luật với chủ trương, đường lối của Đảng; không để tình trạng pháp luật thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng mà mỗi nơi hiểu một kiểu.
Yêu cầu “phát huy cao độ tính Đảng trong xây dựng và thi hành pháp luật” trước hết cũng cho thấy cần tập trung làm rõ cơ sở lý luận xác lập nội hàm tính Đảng và từ đây Đảng ủy Quốc hội, với tư cách cấp ủy Đảng chịu trách nhiệm chính trong việc lãnh đạo công tác lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát thực hiện pháp luật phải khẩn trương nghiên cứu, thiết lập một cơ chế thẩm định, thẩm tra tính Đảng nhằm bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, phát huy vai trò, trách nhiệm của Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Quốc hội cũng như của bộ máy chuyên trách về xây dựng Đảng trong Quốc hội.

Từ thực tiễn hoạt động của Đảng bộ Quốc hội kể từ khi thành lập đến nay, có thể xác định những vấn đề, nội dung trong các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết (quy phạm pháp luật) thuộc thẩm quyền của Quốc hội gắn với nội hàm tính đảng mà Đảng ủy Quốc hội và các cơ quan tham mưu, giúp việc cần tập trung xem xét, cho ý kiến đánh giá một cách đồng thời, đồng bộ với việc thực hiện quy trình thẩm tra thuộc chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng Dân tộc và các cơ quan của Quốc hội, đó là:
Đánh giá sự phù hợp về nội dung văn bản pháp luật, hình thức văn bản pháp luật được ban hành với nội dung các nguyên tắc cơ bản, chủ trương, đường lối của Đảng thể hiện trong Điều lệ, Cương lĩnh của Đảng và Nghị quyết, Quy định, Quy chế, Kết luận, Hướng dẫn của cấp ủy, tổ chức đảng cấp trên hoặc của cấp mình;
Đánh giá sự phù hợp về phạm vi điều chỉnh (đối tượng điều chỉnh, nội dung điều chỉnh, không gian và thời gian áp dụng) của văn bản pháp luật với yêu cầu thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng;
Đánh giá mức độ yêu cầu thể chế hóa (xác định rõ các vấn đề mang tính cấp bách, tính kịp thời, tính thử nghiệm, tính đột phá hoặc tính căn bản, toàn diện) liên quan đến những chủ trương, đường lối mới nhất hoặc lâu dài của Đảng xuất phát từ tình hình thực tiễn khi tiến hành xây dựng pháp luật; cân nhắc các mặt ưu, nhược điểm so với việc tiếp tục duy trì các quy định hiện hành để bảo đảm tính thống nhất, tính ổn định của hệ thống pháp luật (việc ban hành hoặc chưa ban hành văn bản pháp luật sẽ có ảnh hưởng ra sao về cơ hội, rủi ro, thách thức đối với việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng);
Đánh giá sự bảo đảm phối hợp chặt chẽ giữa cấp ủy, tổ chức đảng (trong quy trình soạn thảo) của cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra (hồ sợ dự thảo văn bản pháp luật đã lấy ý kiến cấp ủy, tổ chức Đảng hoặc lấy ý kiến tập thể lãnh đạo ở cơ quan, đơn vị trình, thẩm tra hay chưa; các ý kiến tham gia thêm hoặc ý kiến thiểu số bảo lưu trong quá trình tham gia ý kiến thẩm định, thẩm tra văn bản pháp luật);
Đánh giá tính đầy đủ, chính xác của việc xác định căn cứ chính trị làm cơ sở cho việc xây dựng, ban hành văn bản pháp luật;
Đánh giá việc thực hiện các yêu cầu về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong nội dung hồ sơ văn bản pháp luật được xây dựng;
Đánh giá việc thực hiện các biện pháp cần thiết riêng (nếu có) của cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra để bảo đảm kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật;
Đánh giá tiến độ và tính thời sự của việc ban hành văn bản pháp luật so với yêu cầu đặt ra (nếu có) trong các chương trình hành động, kế hoạch thực hiện nghị quyết của cấp ủy Đảng.

Một số giải pháp bảo đảm phát huy cao độ tính Đảng trong xây dựng pháp luật ở Quốc hội
Nhằm bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Đảng bộ Quốc hội, trực tiếp là Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Quốc hội đáp ứng các yêu cầu của tình hình mới, trong đó nhấn mạnh đến 2 yêu cầu then chốt là: thể chế hóa một cách đầy đủ, đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng trong tình hình mới và bảo đảm phát huy được yêu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước đối với hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, cần nhận thức đúng về phương thức lãnh đạo của Đảng khi thực hiện nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” trước yêu cầu của tình hình mới theo hướng tránh xu hướng tuyệt đối hóa một cách máy móc về sự tách bạch rạch ròi giữa công tác lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý nhà nước trong tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước; bảo đảm vừa phân định rõ, vừa kết hợp một cách hài hòa “đúng vai, thuộc bài” giữa vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong thực hiện quản lý; tránh tình trạng rơi vào một trong hai trạng thái: hoặc là cấp ủy, tổ chức đảng bao biện, làm thay vai trò của cơ quan nhà nước, hoặc là thoát ly tính đảng, tức là thực hiện chức năng quản lý không trên cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng.

Thứ hai, cùng với đổi mới mạnh mẽ khâu ban hành chương trình hành động, kế hoạch thực hiện và quán triệt triển khai thực hiện trong hoạt động của Quốc hội các chủ trương, nghị quyết của Đảng, cần nâng cao tính chủ động, tích cực của Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Quốc hội trong tham mưu, đề xuất với các cơ quan có thẩm quyền của Đảng về chương trình, nhiệm vụ lập pháp của Quốc hội, bảo đảm song hành phối hợp trong quy trình hoạch định chính sách của Chính phủ. Đảng ủy Quốc hội cần chủ động lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy đảng ở Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội việc tổ chức nghiên cứu, đánh giá trước các yêu cầu về bảo đảm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng cũng như sự phù hợp trong sáng kiến pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân so với yêu cầu thể chế hóa. Trường hợp cần thiết giao cấp ủy cơ quan có thẩm quyền thẩm tra lãnh đạo, chỉ đạo việc tiến hành giám sát, khảo sát nhằm nắm thật chắc những vấn đề cơ chế, chính sách cần thể chế hóa, để không xảy ra tình trạng “bị động”, bị “ép” về tiến độ thẩm tra hồ sơ dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Thứ ba, tiếp tục nâng cao nhận thức, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng của toàn Đảng bộ nhằm tìm tòi, đổi mới tư duy xây dựng pháp luật cũng như trong giám sát thực hiện pháp luật phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng; vận dụng sáng tạo phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng pháp luật, bảo đảm pháp luật được ban hành phải phát huy cao hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn thực hiện pháp luật, coi đây là thước đo đánh giá năng lực, chất lượng lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ.

Thứ tư, tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong toàn Đảng bộ Quốc hội; tăng cường trách nhiệm của các đồng chí Thường trực Đảng ủy, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Quốc hội đối với công tác kiểm tra, giám sát nhằm kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực một cách có hiệu quả đối với quan hệ hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của các Ban đảng ở Trung ương đối với Đảng ủy, Ban Thường vụ Đảng ủy Quốc hội nhằm thúc đẩy thể chế hóa kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng.

Thứ năm, quan tâm xây dựng, củng cố các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng ủy Quốc hội tinh gọn, đủ năng lực hoàn thành các nhiệm vụ hướng dẫn, thẩm tra nhằm bảo đảm tính đảng đối với công tác xây dựng, ban hành và giải thích kịp thời nội dung văn bản quy phạm pháp luật theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng. Việc thành lập các cơ quan tham mưu, giúp việc Đảng ủy Quốc hội (hiện bao gồm: Văn phòng, Ban Tổ chức, Ban Tuyên giáo và Dân vận, Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy) đã đặt ra yêu cầu cao hơn về trách nhiệm bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng ủy Quốc hội trong hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.

Đối với công tác xây dựng pháp luật, các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng ủy Quốc hội không thể đứng ngoài công tác thẩm tra về bảo đảm yêu cầu tính đảng đối với các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết mang tính quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Do đó, đồng thời với yêu cầu làm rõ nội hàm tính đảng như đã nêu trên, cần sớm xác lập một cơ chế tổ chức thẩm tra, tham gia thẩm tra trong quy trình giải quyết công việc của cấp ủy Đảng, “đặt bên cạnh” và có tính chất giám sát tức thời về yêu cầu phát huy tính Đảng trong quá trình các cơ quan của Quốc hội thực hiện quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, điều này cũng đòi phải nâng cao toàn diện năng lực trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác xây dựng Đảng ở Quốc hội ngang tầm nhiệm vụ.

Thứ sáu, cần phát huy thật tốt vai trò của các đồng chí Thường trực Đảng ủy, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Quốc hội tích cực tham gia thảo luận, định hướng quan điểm xây dựng pháp luật của Đảng trong các kỳ họp Quốc hội.
Với việc ra đời mô hình Đảng bộ Quốc hội, dưới sự lãnh đạo chỉ đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng ủy Quốc hội, chỉ trong một thời gian ngắn từ tháng 2 đến tháng 9/2025, Quốc hội đã đạt được những kết quả to lớn chưa từng thấy về khối lượng, hiệu quả xây dựng pháp luật trong một nhiệm kỳ (và nếu so sánh suốt thời gian gần 80 năm lịch sử Quốc hội thì kết quả công tác xây dựng pháp luật của Quốc hội từ khi Đảng bộ Quốc hội đi vào hoạt động, càng cho thấy đây là thành quả hết sức nổi bật). Chỉ riêng trong Kỳ họp thứ Chín (từ tháng 5 đến tháng 6/2025), Đảng ủy Quốc hội đã lãnh đạo Quốc hội khẩn trương, hoàn thành vượt tất cả các mốc thời gian đã đề ra trước đó (không chỉ vượt tiến độ về sửa đổi Hiến pháp năm 2013 mà còn là con số 34 luật và 13 nghị quyết quy phạm pháp luật đã được Quốc hội thông qua, chưa kể việc Quốc hội đã cho ý kiến đối với nhiều dự án luật và thông qua hàng chục nghị quyết khác).
Để phát huy cao độ tính đảng nhằm đáp ứng yêu cầu thể chế hóa kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng trong tình hình mới, chặng đường phía trước sẽ còn rất nhiều công việc quan trọng mà Đảng bộ Quốc hội phải tập trung giải quyết từng bước. Những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ Quốc hội lần thứ Nhất, nhiệm kỳ 2025-2030, trong đó có nhiệm vụ, giải pháp “đột phá” về xây dựng pháp luật, đã cho thấy sự tin tưởng, quyết tâm của cán bộ, đảng viên thuộc Đảng bộ vào sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta đối với việc hoàn thành thắng lợi các mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và công cuộc phát triển đất nước trong kỷ nguyên phát triển thịnh vượng, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam./.
---
[1], [2] “Khi được cơ quan có thẩm quyền của Đảng đồng ý và trong trường hợp khẩn cấp theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp hoặc xảy ra sự cố, thảm họa theo quy định của pháp luật về phòng thủ dân sự hoặc sự kiện bất khả kháng hoặc các vấn đề cấp bách, quan trọng, cần thiết của đất nước, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ... ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong trường hợp đặc biệt”
[3] “cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong công tác xây dựng pháp luật có trách nhiệm báo cáo, xin ý kiến cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Đảng”.