Trở ngại trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Mỹ
Vào đầu năm 2024, niềm tin rằng sức mạnh của đồng USD sẽ nhanh chóng hạ nhiệt đã lan rộng trên khắp các thị trường, khi hầu hết các nhà đầu tư đều chung nhận định Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) chuẩn bị cắt giảm lãi suất. Nhưng cho đến hiện tại, các đợt cắt giảm lãi suất vẫn chưa xuất hiện và chỉ số đồng USD, thước đo sức mạnh của đồng bạc xanh so với 6 loại tiền tệ khác trong rổ tiền tệ quốc tế, đã tăng 4% tính từ đầu năm nay và tăng khoảng 16% trong vòng ba năm qua.
Mặc dù, tỷ lệ tăng của chỉ số đồng USD phản ánh sức mạnh tương đối của nền kinh tế Mỹ, nhưng việc đồng tiền này liên tục tăng lên đã trở thành vấn đề đối với một số doanh nghiệp của nước này, đặc biệt là các công ty đa quốc gia cần chuyển lợi nhuận từ đồng nội tệ của nước ngoài sang đồng USD. Không những vậy, đồng USD mạnh làm tổn hại đến khả năng cạnh tranh về giá của các nhà xuất khẩu.
Để ứng phó với sức mạnh của đồng USD, các công ty cũng phải dành nguồn lực cho các chiến lược phòng hộ, nhằm bù đắp rủi ro từ việc đồng USD tăng giá, gây ảnh hưởng tới lợi nhuận của họ.
Theo ước tính của tổ chức nghiên cứu BofA Global Research, cứ mỗi mức tăng 10% giá trị của đồng USD so với cùng kỳ năm trước, thì thu nhập của các công ty thuộc chỉ số S&P 500 (500 công ty đi đầu trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế Mỹ) sẽ giảm khoảng 3%.
Khoảng 80% các công ty thuộc chỉ số S&P 500 đã báo cáo kết quả kinh doanh quý I/2024, trong đó các tập đoàn lớn từ Apple Inc và IBM đến Procter & Gamble đều thừa nhận ngoại hối là một trở ngại lớn trong hoạt động kinh doanh trong quý này.
Tuy nhiên, không phải tất cả các công ty thuộc chỉ số S&P 500 đều bị ảnh hưởng như nhau trước sự biến động của đồng USD. Dữ liệu từ FactSet cho thấy, các lĩnh vực công nghệ thông tin, vật liệu và dịch vụ truyền thông đứng đầu danh sách các công ty có mức doanh thu quốc tế cao nhất, có mức doanh thu từ nước ngoài chiếm lần lượt 57%, 52% và 48% tổng doanh thu.
Trong bản báo cáo kết quả kinh doanh quý mới nhất, tập đoàn Coca-Cola cho biết đã phải chịu một khoản tổn thất từ việc chuyển đổi ngoại tệ là 9%, nguyên nhân là do sự mất giá của các loại tiền tệ tại những thị trường bên ngoài nước Mỹ. Tương tự, tập đoàn 3M thông báo hoạt động ngoại hối gây tác động tiêu cực đến tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp, với mức điều chỉnh lớn hơn 0,6 điểm phần trăm so với dự kiến. “Gã khổng lồ” Apple cho biết phải chịu tác động tiêu cực từ hoạt động ngoại hối trong kết quả doanh thu hàng quý của mình.
Để ngăn chặn biến động tỷ giá hối đoái tạo ra những tác động lớn đối với thu nhập, các doanh nghiệp Mỹ đang tích cực sử dụng những chiến lược phòng ngừa rủi ro khác nhau, bao gồm cả những chiến lược sử dụng hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn.
Một số công ty tư vấn chuyên về vấn đề quản lý rủi ro ngoại hối ghi nhận sự gia tăng hoạt động phòng ngừa rủi ro trong những tuần gần đây, mặc dù thị trường tiền tệ đã trầm lắng hơn khiến việc phòng ngừa rủi ro trở thành vấn đề ít khẩn cấp hơn đối với một số công ty. Vào tháng Ba, chỉ số biến động tiền tệ của ngân hàng Deutsche Bank đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 9/2021.
Ông John Doyle, người đứng đầu bộ phận giao dịch tại tổ chức tài chính Monex USA cho biết: “Biến động tiền tệ đã giảm xuống mức thấp nhất trong nhiều năm, dẫn đến thiếu cảm giác cấp bách. Tuy nhiên, chúng tôi đã chứng kiến sự gia tăng trong hoạt động phòng ngừa rủi ro trong khoảng 1,5 tháng gần đây”.
Các nhà phân tích tại BofA Global Research cho biết mặc dù họ tin rằng đồng USD cuối cùng sẽ sụt giảm trong trung hạn, nhưng “thời điểm bước ngoặt đã trở nên khó khăn hơn”.
Các nước tăng cường bảo vệ đồng nội tệ
Sự mạnh lên của đồng tiền bạc xanh cũng sẽ tác động đến các đồng tiền và nền kinh tế khác. Ấn Độ và Nigeria nằm trong số những nước có tỷ giá giảm về các mức thấp kỷ lục, trong khi Nhật Bản và Ba Lan đang có khả năng phải can thiệp vào thị trường tiền tệ.
Ngân hàng trung ương ở các thị trường phát triển như Australia, Khu vực sử dụng đồng tiền chung euro (Eurozone) và Anh có thể khó hạ lãi suất hơn. Những nước có nhiều nợ nước ngoài, như Maldives và Bolivia, cũng như những nước phụ thuộc nhiều vào hàng nhập khẩu từ Mỹ, có thể sẽ bị thiệt hại nặng nề nhất.
Sức mạnh của nền kinh tế Mỹ và lãi suất cao được duy trì trong thời gian dài của nước này cũng khiến các đồng tiền châu Á yếu đi. Các nhà hoạch định chính sách châu Á đang ứng phó với sự mạnh lên của đồng USD ở các mức độ khác nhau, từ đưa ra cảnh báo cho đến tăng lãi suất. Thậm chí, một số nước được cho là đã can thiệp bằng cách mua đồng nội tệ - một động thái có thể ảnh hưởng đến tín nhiệm của ngân hàng trung ương.
Đồng yen là một trong những đồng tiền châu Á bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi một nền kinh tế Mỹ mạnh hơn dự đoán. Giới phân tích cho biết, Chính phủ Nhật Bản gần đây dường như đã can thiệp hai lần (ngày 29/4 và 1/5) để hỗ trợ đồng yen, mặc dù dữ liệu chính thức vẫn chưa được công bố. Trước đó, đồng yen đã giảm mạnh xuống dưới 160 yen đổi một USD, mức thấp nhất trong 34 năm.
Đồng yen suy giảm là do sự chênh lệch khoảng 5 điểm phần trăm giữa lợi suất trái phiếu chính phủ của Mỹ và Nhật Bản. Theo Refinitiv, đồng yen đang dao động trong khoảng 155 yen đổi 1 USD, giảm 9,4% trong năm nay. Bản tóm tắt ý kiến từ cuộc họp chính sách tiền tệ tháng 4 của Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ) được công bố vào tuần trước cho thấy một số thành viên hội đồng quản trị dự đoán sẽ có một đợt tăng mạnh lãi suất và nhiều người cho rằng BoJ nên giảm mua trái phiếu.
Những ông Shoki Omori, chiến lược gia của công ty chứng khoán Mizuho Securities, dự đoán xu hướng bán đồng yen sẽ tiếp tục cho đến khi các yếu tố căn bản thay đổi, vì "không có giải pháp nhanh chóng" nào có thể đảo ngược sự suy yếu của đồng yen.
Còn tại Hàn Quốc, theo dữ liệu của Ngân hàng trung ương Hàn Quốc (BoK), dự trữ ngoại hối trong tháng 4 đã giảm gần 6 tỷ USD so với tháng Ba, một phần là do những nỗ lực của chính phủ nhằm ngăn chặn sự suy giảm của đồng won.
BoK cho biết sự sụt giảm dự trữ ngoại hối này có liên quan đến một số yếu tố, trong đó có "các biện pháp ổn định thị trường như hoán đổi ngoại tệ với Quỹ hưu trí Quốc gia".
Bộ Tài chính Hàn Quốc và BoK trong tháng 4 đã can thiệp vào thị trường với lời cảnh báo về những biến động tiền tệ nhanh ngay khi đồng won chạm mức 1.400 won đổi 1 USD lần đầu tiên trong khoảng một năm rưỡi. Kể từ đó, đồng won đã tăng giá, gần đây được giao dịch ở mức 1.366,50 won đổi 1 USD, theo Refinitiv. Bà Moon Da Woon, chuyên gia kinh tế tại công ty Korea Investment & Securities ở Seoul, dự đoán đồng won sẽ mạnh lên mức 1.200 won đổi 1 USD vào cuối năm.
Ở Indonesia, ngân hàng trung ương nước này đã bất ngờ nâng lãi suất thêm 0,25 điểm phần trăm lên 6,25% vào tháng trước để hỗ trợ đồng rupiah. Tại một cuộc họp báo tuần trước, Thống đốc Ngân hàng trung ương Indonesia Perry Warjiyo cho biết dữ liệu cho thấy hiện tại không cần tăng lãi suất thêm nữa. Ông cam kết sẽ nỗ lực thúc đẩy đồng rupiah mạnh lên mức 16.000 rupiah đổi 1 USD.
Từ mức gần 16.300 rupiah đổi 1 USD trước động thái bất ngờ nới trên, đồng rupiah đã tăng lên khoảng 16.000 đổi 1 USD, nhưng vẫn chưa phục hồi sau khi chạm đáy bốn năm vào tháng trước.
Một trong những đồng tiền ổn định nhất tại châu Á là đồng rupee của Ấn Độ, dù đồng tiền này đã giảm xuống mức thấp nhất từ trước đến nay so với đồng USD là 83,739 rupee/USD vào tháng trước. Theo Rob Carnell, chuyên gia kinh tế trưởng khu vực châu Á - Thái Bình Dương của ING ở Singapore, Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (RBI tức ngân hàng trung ương) đã "quản lý chặt chẽ” đồng rupee kể từ khoảng tháng 10 năm ngoái, khiến đồng tiền này chỉ biến động trong một biên độ hẹp khoảng 83 rupee/USD.
Ông Carnell cho biết tất cả các ngân hàng trung ương và khu vực ở châu Á, ngoại trừ Malaysia, đều có dự trữ ngoại hối đủ để trang trải hơn sáu tháng nhập khẩu, đây là ngưỡng dự trữ đủ. Đồng ringgit của Malaysia đang được giao dịch ở mức 4,737 ringgit đổi 1 USD sau khi giảm xuống mức thấp nhất trong 26 năm là 4,7965 ringgit/USD vào tháng 2. Sự suy yếu của đồng ringgit là do đồng USD mạnh lên, thặng dư tài khoản vãng lai của Malaysia giảm.