Chủ trương lớn, nhất quán của Đảng
Trong hơn 35 năm đổi mới, nhất là trong 10 năm vừa qua (2011-2020), toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu, không ngừng đẩy mạnh CNH, HĐH, đạt được nhiều kết quả, thành tựu quan trọng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức cao. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, chúng ta vẫn chưa thực hiện được mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020; các đột phá chiến lược chưa có sự bứt phá; nội lực của nền kinh tế còn yếu; năng lực độc lập, tự chủ thấp, còn phụ thuộc nhiều vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài...
Chính vì vậy, Đại hội XIII của Đảng đã xác định: Trong bối cảnh mới, để thực hiện được mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam “là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao”, đến năm 2045 “trở thành nước phát triển, thu nhập cao”, cần phải “tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”.
Để tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, tại Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, Trung ương đã nghiên cứu, thảo luận và quyết định ban hành Nghị quyết chuyên đề đầu tiên về vấn đề đặc biệt quan trọng này.
Trung ương nhất trí cao cho rằng, để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội XIII của Đảng đã đề ra trong bối cảnh tình hình trong nước và trên thế giới đã, đang và sẽ có nhiều thay đổi trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, toàn Đảng, toàn dân ta cần phải tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức và hành động quyết liệt, đúng đắn, đồng bộ hơn trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta. Cần phải nhận thức rõ: CNH, HĐH là một quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội ngày càng dựa nhiều hơn vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; là phương thức quan trọng để Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự cường, phát triển kinh tế nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao…
Cần lộ trình cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm
Tâm huyết với Nghị quyết sẽ được ban hành về tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đến 2030, tầm nhìn 2045, nhiều chuyên gia trong lĩnh vực xây dựng Đảng cho rằng, đây là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng trong quá trình xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết sẽ là văn kiện quan trọng của Đảng nhằm đảm bảo sự thống nhất trong tư duy của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân về mục tiêu, nguồn lực, các chính sách ưu tiên và lộ trình của CNH, HĐH đất nước trong chặng đường tiếp theo.
Từ đây, những cách làm mới sẽ xuất hiện, cho phép phát huy hiệu quả nguồn lực trong nước, tận dụng tốt nhất các nguồn lực bên ngoài nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Mặt khác, Nghị quyết cũng sẽ là cơ hội để các cơ quan từ Trung ương đến địa phương rà soát lại quá trình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đánh giá đúng tiềm năng, thế mạnh của mình, xác định rõ những thời cơ, thách thức để xây dựng chiến lược CNH, HĐH có lộ trình và bước đi cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với điều kiện của từng ngành, lĩnh vực…
Bên cạnh đó, Nghị quyết cũng sẽ là cơ sở để chúng ta khai thác và phát huy tốt nhất tiềm năng, lợi thế của đất nước, của từng vùng, từng địa phương trong quá trình CNH, HĐH; tận dụng và phát huy lợi thế của nước đi sau và đang trong thời kỳ “dân số vàng”; kết hợp chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả giữa phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu; đẩy nhanh sự phát triển toàn diện của đất nước.
Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, CNH, HĐH phải trên cơ sở nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; có lộ trình và bước đi cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên nguồn lực và có các cơ chế, chính sách đột phá, đặc thù để phát triển các cực tăng trưởng, các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên gắn với công nghệ thông minh, các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Đồng thời, tăng cường liên kết ngành và liên kết vùng để tạo không gian phát triển mới; coi nguồn lực trong nước là cơ bản, chiến lược, lâu dài và quyết định; nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá; doanh nghiệp trong nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) là động lực chính, chủ đạo; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng.
“Trong quá trình CNH, HĐH, phải chú ý bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, hiệu quả; khơi dậy khát vọng phát triển, tinh thần khởi nghiệp quốc gia, đổi mới sáng tạo; phát huy giá trị văn hóa, bản lĩnh con người Việt Nam; vai trò xung kích, đi đầu của lực lượng doanh nghiệp, đội ngũ doanh nhân và đội ngũ trí thức, giai cấp công nhân hiện đại” - Tổng Bí thư lưu ý./.
Giai đoạn 2011-2020, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam ở mức cao, đạt bình quân 6,17%/năm, chất lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô nền kinh tế tăng nhanh, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực với tỷ trọng đóng góp của công nghiệp và dịch vụ vào GDP đạt khoảng 72,7% năm 2020, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình.