.jpg)
Tỷ lệ nghèo đa chiều còn cao
Xã Trần Phú là xã thuộc vùng phía Bắc của tỉnh Thái Nguyên, nằm cách trung tâm hành chính tỉnh 115 km. Xã có diện tích tự nhiên 145,2 km², phía Bắc giáp các xã Văn Lang và Na Rì, phía Tây và phía Nam giáp xã Côn Minh, phía Đông giáp xã Thiện Hòa tỉnh Lạng Sơn. Xã có 20 thôn, trung tâm hành chính đặt tại thôn Khau An. Diện tích rừng của xã lớn, chiếm 78,8%.
Địa hình dạng núi trung bình đến núi cao, hướng núi chủ yếu là Bắc - Nam, địa hình chia cắt mạnh, chủ yếu là đất Feralit đỏ vàng trên đá biến chất, Feralit vàng trên đá macma axit. Khí hậu có 4 mùa rõ rệt xuân, hạ, thu, đông, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, chịu ảnh hưởng của gió mùa nên có sự phân hóa thời tiết theo mùa rõ rệt với thảm thực vật chủ yếu là lá rộng thường xanh. Lượng mưa bình quân từ 1200 ÷ 1500 mm/năm.
Thực tế tình hình sản xuất của bà con nơi đây còn manh mún, nhỏ lẻ chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hóa quy mô lớn, do đó chưa tạo nên nhiều chuỗi giá trị phù hợp với tiềm năng của địa phương. Diện tích chủ yếu là rừng tự nhiên, đồi núi cao do đó đi lại, canh tác gặp nhiều khó khăn. Với tỷ lệ nghèo đa chiều còn cao (45%), trình độ dân trí chưa đồng đều là rào cản trong việc ứng dụng các kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất và đời sống. Vì thế, đời sống bà con nơi đây còn gặp nhiều khó khăn.
Là một trong những địa phương được thụ hưởng Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, cũng như các Chương trình mục tiêu quốc gia khác, tỉnh Cao Bằng và chính quyền xã Trần Phú đang nỗ lực thúc đẩy đời sống của bà con nơi đây.
Ngay sau khi sáp nhập, xã Trần Phú mới đã triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo với đầy đủ 3 tiểu dự án, 7 nội dung thành phần; lồng ghép, huy động các nguồn lực để hỗ trợ giảm nghèo đa chiều hiệu quả; tổ chức đào tạo nghề, hỗ trợ việc làm cho lao động nghèo. Đồng thời triển khai thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi, hỗ trợ sản xuất, nhân rộng mô hình giảm nghèo.

Lãnh đạo UBND xã Trần Phú cho biết, đối với Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, xã tập trung vào các giải pháp về phát triển sinh kế, nhân rộng mô hình giảm nghèo, cụ thể như hỗ trợ con giống, cây trồng chủ lực phù hợp điều kiện tự nhiên xã (như chăn nuôi trâu, dê, nuôi ong, trồng quế, mơ, hồi…). Cùng với đó là mở rộng các mô hình kinh tế hợp tác kiểu mới, tổ hợp tác sản xuất gắn với liên kết tiêu thụ nông sản.
Giải pháp về hỗ trợ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản được xã Trần Phú tập trung vào việc cải thiện nhà ở cho hộ nghèo chưa có nhà ở an toàn; Hỗ trợ người nghèo tiếp cận y tế (bảo hiểm, khám chữa bệnh), giáo dục (học bổng, miễn giảm học phí), thông tin (thiết bị nghe nhìn, điện thoại); Đảm bảo 100% hộ nghèo được tiếp cận nước sạch và vệ sinh.
Về giải pháp nâng cao năng lực cán bộ làm công tác giảm nghèo, xã tổ chức tập huấn cho cán bộ thôn, xã về lập kế hoạch giảm nghèo, giám sát thực hiện và huy động nguồn lực; xây dựng hệ thống theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện chương trình giảm nghèo dựa trên dữ liệu số.
Khó khăn đối với địa bàn vùng cao của tỉnh là thu hút nguồn lực xã hội hóa. Vì thế, xã cũng đề ra các giải pháp huy động nguồn lực. Bên cạnh định hướng được xã xác định rõ là sử dụng hiệu quả nguồn vốn từ ngân sách Trung ương, tỉnh phân bổ; xã vẫn mong muốn kêu gọi các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cộng đồng người con quê hương tham gia hỗ trợ giảm nghèo cho bà con.
Cùng với đó, xã tập trung tuyên truyền nâng cao nhận thức người dân thông qua việc đa dạng hình thức truyền thông về chính sách giảm nghèo, khơi dậy ý chí vươn lên thoát nghèo của người dân.

Lồng ghép để triển khai hiệu quả Chương trình
Để góp phần triển khai hiệu quả các giải pháp, xã Trần Phú đã khẩn trương rà soát, cập nhật, quản lý hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo theo chuẩn nghèo mới. Tập trung triển khai hiệu quả các nội dung thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và lồng ghép vào các chương trình mục tiêu quốc gia khác như: chương trình nông thôn mới, chương trình 135, chương trình phát triển vùng dân tộc thiểu số, phục hồi rừng…, cũng như tăng cường vai trò cộng đồng trong giám sát, thực hiện và duy trì kết quả giảm nghèo.
Trên thực tế, ngay sau sáp nhập, xã đã khẩn trương hỗ trợ cây, con giống phù hợp nhu cầu và điều kiện của địa phương; xây dựng mô hình Tổ hợp tác, Hợp tác xã sản xuất - tiêu thụ sản phẩm vùng cao. Nhân rộng mô hình chăn nuôi, trồng trọt luân canh dưới tán rừng. Hỗ trợ bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh, học bổng, miễn giảm học phí cho học sinh nghèo. Hỗ trợ cải thiện nhà ở, nước sạch, công trình vệ sinh, đặc biệt cho các hộ khó khăn vùng sâu.
Đồng thời, tăng cường hỗ trợ trang thiết bị thông tin (như tivi, điện thoại…) nhằm thu hẹp khoảng cách tiếp cận thông tin. Tổ chức đào tạo nghề nông thôn sát với nhu cầu thực tiễn (chăn nuôi, trồng trọt, chế biến, thủ công mỹ nghệ). Kết nối với các doanh nghiệp để giới thiệu việc làm, xuất khẩu lao động có thời hạn.
Xã cũng tổ chức hội nghị, sinh hoạt thôn bản tuyên truyền về chính sách giảm nghèo, khơi dậy ý chí tự vươn lên. Biểu dương, nhân rộng hộ thoát nghèo bền vững tiêu biểu. Lồng ghép, huy động hiệu quả nguồn vốn từ ngân sách Trung ương, tỉnh, huyện và xã hội hóa. Tăng cường giám sát cộng đồng, công khai, minh bạch chính sách hỗ trợ. Định kỳ, xã và từng xóm đã sơ kết, tổng kết việc thực hiện Chương trình, trên cơ sở đó xã có những điều chỉnh kế hoạch cho phù hợp với thực tiễn./.
