
14:30 Tọa đàm chính thức bắt đầu. Tọa đàm có sự tham dự của:
(1) Ông Tạ Đình Thi - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội
(2) Ông Mai Văn Quang - Phó Kiểm toán trưởng Kiểm toán nhà nước khu vực I.
14:30-14:35: MC Nguyễn Tiến Tú giới thiệu Tọa đàm
Xin kính chào quý vị và các bạn!
Chào mừng Quý vị và các bạn đến với Tọa đàm “Huy động nguồn lực cho công tác bảo vệ môi trường - Thách thức và giải pháp”. Chương trình do Báo Kiểm toán thực hiện và được phát sóng trực tiếp tại địa chỉ baokiemtoan.vn
Kính thưa quý vị và các bạn, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường đang là những thách thức lớn đối với toàn cầu và Việt Nam. Để chung tay giải quyết những vấn đề này, bên cạnh ý thức cộng đồng, thì việc huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực là yếu tố then chốt. Câu hỏi đặt ra là: Nguồn lực cho bảo vệ môi trường hiện nay đang được quản lý và sử dụng như thế nào? Những khó khăn, bất cập là gì và giải pháp nào để tháo gỡ?
Đây chính là những vấn đề sẽ được chúng tôi cùng các vị khách mời luận bàn tại Tọa đàm ngày hôm nay.
14:35-14:39 Phát phóng sự Tọa đàm với chủ đề: "Nguồn lực cho bảo vệ môi trường - thách thức và giải pháp"
14:39-14:54
MC: Vâng thưa quý vị, qua phóng sự có thể thấy một thực tế là tỷ lệ chi ngân sách cho bảo vệ môi trường còn thấp, chưa tương xứng so với yêu cầu thực tiễn, Quỹ Bảo vệ môi trường chưa phát huy hiệu quả…

Và trước tiên, chúng tôi xin được trao đổi với ông Tạ Đình Thi, thưa ông, là người trực tiếp tham gia Đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội về việc thực hiện chính sách pháp luật về môi trường, ông có thể chia sẻ rõ hơn về thực trạng cũng như những thách thức trong việc huy động và bố trí nguồn lực từ ngân sách nhà nước cho lĩnh vực này thời gian qua?
Ông Tạ Đình Thi trả lời: Trước hết tôi xin cảm ơn Báo Kiểm toán đã mời tôi cùng với anh Quang đến tham dự chương trình Tọa đàm ngày hôm nay.
Tôi rất hoan nghênh và đánh giá cao chủ đề của cuộc Tọa đàm có ý nghĩa rất thiết thực, đó là về việc huy động nguồn lực cho công tác bảo vệ môi trường. Đây cũng là một trong những vấn đề trọng tâm mà Đoàn giám sát của Quốc hội đã chỉ ra qua thực hiện giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”.
Ngay trước khi kết thúc kỳ họp thứ 10 vừa qua, Quốc hội cũng đã thông qua một Nghị quyết 247 ngày 10/12/2025 về việc tiếp tục nâng cao hiệu quả và việc thực hiện chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường. Đây là văn bản pháp lý có ý nghĩa thiết thực và tính thực tiễn rất cao.
Quay lại câu hỏi của MC, tôi cho rằng nhìn lại cả một chặng đường về công tác bảo vệ môi trường của đất nước ta, liên quan đến việc bố trí chi ngân sách cho công tác bảo vệ môi trường thì từ năm 2004 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 41 ngày 15/ 11/2004 về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Trong đó đã đề ra chủ trương là cần phải tăng và bố trí tối thiểu là 1% chi ngân sách cho công tác bảo vệ môi trường. Thực tế cho thấy, mức chi của chúng ta càng ngày càng tăng lên, tất nhiên là cũng có lúc có nơi chưa đạt 1% nhưng mà cơ bản là có chiều hướng tăng lên.
Ví dụ như 10 năm qua, năm 2024 thì chúng ta bố trí khoảng trên 23.000 tỷ đồng, trước đó năm 2015 thì con số này là khoảng 13.600 tỷ đồng. Như vậy là ngân sách của chúng ta trong khoảng 10 năm là tăng gần gấp đôi.
Ngoài ra, các công cụ kinh tế sử dụng trong công tác bảo vệ môi trường cũng đã được hình thành, phát triển và được thực hiện ngày càng rộng rãi, có hiệu quả hơn. Ví dụ như là thuế, phí bảo vệ môi trường đã được ban hành và tổ chức thực hiện khá nghiêm túc, qua đó tạo thêm nguồn thu cho ngân sách và chúng ta có điều kiện tái sử dụng lại cho công tác bảo vệ môi trường.
Cùng với đó là các công cụ tài chính khác, ví dụ như tín dụng xanh, trái phiếu xanh hay vừa rồi Chính phủ cũng đã và đang thực hiện và huy động khá tốt các nguồn vốn từ các cái khu vực khác.
Chúng ta cũng đã thành lập và phát huy các quỹ. Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam là Quỹ quốc gia, dưới các địa phương cũng thành lập và phát huy cái Quỹ bảo vệ môi trường của các địa phương, của các ngành; hay như việc chi trả dịch vụ sinh thái như chi trả dịch vụ rừng. Những công cụ này càng ngày được sử dụng tương đối phổ biến, vừa giúp thay đổi cái hành vi trong công tác bảo vệ môi trường cũng như góp phần nâng cao hiệu quả việc huy động, quản lý và sử dụng các nguồn vốn cho công tác bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn thẳng vào sự thật là còn những cái hạn chế mà Đoàn giám sát cũng đã chỉ ra rất rất cụ thể. Ở đây thì tôi cũng cũng một số vấn đề chính.
Thứ nhất là, tỷ lệ chi ngân sách cho môi trường hiện nay vẫn còn thấp, có thể là vẫn chưa đạt được chỉ tiêu mà Quốc hội và Đảng cũng đã yêu cầu. Vấn đề này trong thời gian tới chúng ta cần phải tiếp tục quan tâm, bố trí cho đủ.
Cùng với việc bố trí nguồn vốn thì việc quản lý và sử dụng kinh phí đó có thực sự hiệu quả hay không thì cũng là một cái vấn đề mà chúng ta cũng cần quan tâm. Ví dụ như bố trí rồi nhưng mà qua giám sát cũng cho thấy, cũng có lúc có nơi phải hủy dự toán, rồi chi tiêu không đúng mục đích, đúng yêu cầu của việc bố trí ngân sách.
Bên cạnh đó, nguồn lực bố trí cũng chưa đáp ứng được yêu cầu, đặc biệt là cho hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường. Ví dụ như hạ tầng về quan trắc, giám sát các cái thông số về môi trường, môi trường đất, môi trường nước, môi trường không khí rồi chất thải; bố trí hạ tầng xử lý nước thải đô thị, nước thải khu công nghiệp hoặc các nhiệm vụ chi cần thiết từ ngân sách cho công tác bảo vệ môi trường.
Hay kể cả việc huy động các nguồn lực xã hội hóa, việc sử dụng các quỹ, trong đó Quỹ Bảo vệ môi trường quốc gia cũng như là Quỹ bảo vệ môi trường của các địa phương cũng có những hạn chế, bất cập.
Về nguyên nhân thì nhiều nhưng chúng tôi thấy rằng một trong những nguyên nhân cơ bản đó là sự quan tâm đúng mức cho công tác bảo vệ môi trường của các cấp, các ngành, sự tham gia của người dân trong công tác bảo vệ môi trường, phải thực hiện đúng các quyền và nhiệm vụ của mình trong việc thực thi pháp luật bảo vệ môi trường.
Thứ hai là, ngay cả một số địa phương, khi mà Luật đã quy định rồi thì cần phải tiếp tục cụ thể hóa, quy định các điều kiện ưu đãi cho công tác bảo vệ môi trường. Chẳng hạn như là việc phân loại ,thu gom, vận chuyển xử lý rác thải sinh hoạt, Luật cũng đặt ra mục tiêu là từ 01/01/2025 trên toàn quốc phải thực hiện nhưng mà cái này đến nay chưa đạt được yêu cầu.
Tóm lại, chúng tôi cho rằng cái thực trạng trong việc huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực cho cái công tác bảo vệ môi trường cũng có nhiều cái tiến bộm nhiều ưu điểm nhưng mà bên cạnh đó thì có những các cái hạn chế bất cập và cần phải tiếp tục quan tâm nhiều hơn nữa theo đề nghị của Đoàn giám sát và Nghị quyết 247 của Quốc hội.
14:54-14:58
MC: Vâng, xin cảm ơn ông Thi, vậy thưa ông Mai Văn Quang, qua thực tiễn công tác kiểm toán, ông đánh giá thế nào về công tác huy động, quản lý cũng như hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí cho bảo vệ môi trường?

Ông Mai Văn Quang trả lời: Chúng ta đã biết, nguồn lực để dành cho việc xử lý môi trường rất là lớn. Hằng năm, toàn xã hội chúng ta chi khoảng từ 1,5 đến 2% GDP của toàn xã hội; đối với ngân sách nhà nước, chúng ta chi bình quân khoảng hơn 1% cho công tác bảo vệ môi trường. 1% ngân sách đấy chủ yếu là chi thường xuyên và sử dụng chủ yếu cho hoạt động thu gom xử lý rác thải và nước thải sinh hoạt đô thị.
Như vậy, có thể thấy rằng, nhu cầu bảo vệ môi trường là rất lớn, nhưng nguồn đầu tư cho nó lại rất hạn hẹp, đặc biệt là nguồn ngân sách nhà nước. Với nguồn ngân sách hữu hạn, 1% từ tổng chi ngân sách cho việc xử lý môi trường là rất thấp.
Việc đầu tư cho môi trường, cần phải kêu gọi ở tất cả các nguồn lực, từ đầu tư xã hội hóa, đầu tư của tư nhân, của nước ngoài như là ODA đến việc khuyến khích các chương trình đầu tư như là BOT, BT, PPP...
Tuy nhiên, việc đầu tư này vẫn gặp nhiều khó khăn bởi hạ tầng kỹ thuật môi trường - là những công nghệ, thiết bị - cần rất nhiều tiền, phải đầu tư nhiều vốn, trong khi thời gian thu hồi vốn lại rất lâu, rất chậm, cơ chế chính sách của nhà nước chúng ta lại chưa được ổn định, nên nhà đầu tư là họ không mặn mà.
Bên cạnh đó, nguồn lực từ các quỹ tín dụng, tức là các ngân hàng cho vay lại khá dè dặt đối với cái lĩnh vực này. Vì vậy, hiện giờ, việc sử dụng nguồn kinh phí chưa tương ứng với nhu cầu cần để bảo vệ môi trường, chưa đáp ứng được nhu cầu hiện tại.
Đặc biệt, nguồn kinh phí 1% trong tổng chi ngân sách chi chủ yếu cho rác thải và nước thải. Trong rác thải, chủ yếu là xử lý rác thải sinh hoạt đô thị từ khâu thu gom, vận chuyển rồi xử lý chôn lấp. Việc chôn lấp chưa triệt tiêu được tất cả những vấn đề về môi trường, như nước từ rác rỉ ra vẫn nằm ở trong lòng đất, nilon không tiêu hủy được...
Có thể nói, chúng ta mới thực hiện được một cái nhiệm vụ là xanh, sạch và đẹp, còn chưa xử lý triệt để được cái các chỉ số về môi trường như nước thải, khí thải, tiếng ồn...
Thời gian vừa qua, trên ti vi vẫn nói rất nhiều về việc Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh là hai địa phương ô nhiễm môi trường ở mức rất nghiêm trọng. Tôi cho rằng, chúng ta sử dụng nguồn lực xã hội, chi ngân sách hiện tại mới đạt được một phần mục tiêu thôi, còn hiệu quả chưa cao, bởi chúng ta chưa xử lý triệt để được vấn đề trong sạch môi trường theo đúng nghĩa của nó.
14:58-15:07
MC: Vâng, qua chia sẻ của các vị khách mời, chúng ta có thể nhận diện một cách tổng quan về khó khăn trong việc huy động cho đến những vướng mắc, hạn chế trong việc sử dụng hiệu quả nguồn lực.
MC: Vậy thưa ông Thi, theo ông, “nút thắt” của vấn đề nằm ở đâu và cần có những giải pháp đột phá nào để hướng đến tăng cường cũng như thu hút mạnh mẽ hơn nguồn lực xã hội, đặc biệt là từ khu vực tư nhân cho công tác bảo vệ môi trường?
Ông Tạ Đình Thi trả lời: Trong Nghị quyết số 247/2025/QH15 của Quốc hội về tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường đã chỉ ra các nhiệm vụ chung mang tính chất đột phá, trong đó có việc huy động và quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn lực cho công tác bảo vệ môi trường.
Qua giám sát, chúng tôi xác định một số nút thắt trong công tác bảo vệ môi trường như: Nhận thức, nguồn lực và trình độ quản lý, quản trị.
Để tháo gỡ những nút thắt này, trước hết cần hoàn thiện thể chế. Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng có một điểm mới đặc biệt quan trọng, đó là việc bổ sung bảo vệ môi trường cùng với phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm. Bảo vệ môi trường là một trụ cột ngang hàng với phát triển kinh tế - xã hội, là một cam kết chiến lược trong việc xây dựng một Việt Nam phát triển nhanh và bền vững. Điều này có nghĩa là mọi chính sách phát triển phải được xem xét trên cơ sở hài hòa với môi trường, đảm bảo tăng trưởng không đánh đổi sinh thái và lợi ích ngắn hạn.
Tại Kỳ họp thứ 10, một số điều của Luật Bảo vệ môi trường cũng đã được sửa đổi, như đơn giản hóa thủ tục kinh doanh, tạo điều kiện để khơi thông các nguồn lực. Năm 2026, Chính phủ có kế hoạch tiếp tục đánh giá toàn diện, khách quan Luật Bảo vệ môi trường để có sửa đổi đồng bộ với các luật khác.
Ngoài ra, các văn bản dưới luật cũng cần phải được sửa đổi. Đồng thời nghiên cứu các mô hình về trách nhiệm bảo vệ môi trường.
Trong quá trình thể chế hóa, xây dựng pháp luật phải bám sát nguyên tắc: Người gây ô nhiễm phải trả tiền; người sử dụng, thụ hưởng cũng phải có đóng góp cho môi trường.
Bên cạnh đó, các vấn đề mới như phát triển thị trường carbon cũng cần đặt ra những yêu cầu để khuyến khích doanh nghiệp tham gia, từ đó giảm thiểu phát thải ô nhiễm.
Ngoài ra, cần đa dạng hóa nguồn tài chính; thu hút nguồn lực xã hội hóa cho bảo vệ môi trường và phát triển các công cụ tài chính khác như thuế, phí bảo vệ môi trường; phát hành trái phiếu xanh; hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp… Đặc biệt, chúng ta cần quan tâm xem xét đánh giá Qũy bảo vệ môi trường để từ đó phát huy hiệu quả của nguồn lực này.
Hiện nay, Việt Nam đã ban hành Luật PPP, nhằm thu hút đầu tư theo phương thức đối tác công - tư trong lĩnh vực môi trường. Đây là phương thức hữu hiệu để thu hút đầu tư cho môi trường, cũng như ứng dụng công nghệ mới vào công tác bảo vệ môi trường.
Cuối cùng, cần minh bạch hóa các quy trình để đảm bảo các bên liên quan được tiếp cận vốn một cách công bằng, từ đó góp phần sử dụng hiệu quả nguồn lực.
15:07-15:11
MC: Và thưa ông Mai Văn Quang, từ góc độ KTNN, ông có đồng ý với những định hướng giải pháp mà ông Thi vừa đề cập? Và KTNN có định hướng như thế nào trong việc kiểm toán, đánh giá công tác huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực cho công tác bảo vệ môi trường, để bảo đảm các nguồn lực được sử dụng hiệu quả, minh bạch, đúng quy định pháp luật?
Ông Mai Văn Quang trả lời:
Tôi hoàn toàn nhất trí với ý kiến của anh Thi. Như chúng ta đã biết, vấn đề ô nhiễm môi trường chủ yếu là do con người chúng ta gây ra. Và để xử lý hiệu quả vấn đề này thì phải có sự chung tay của từng người dân, từng doanh nghiệp, từng tổ chức sản xuất đến Nhà nước và Kiểm toán nhà nước thì cũng không nằm ngoài công cuộc này.
Kiểm toán nhà nước đã có định hướng rất rõ về kiểm toán môi trường và được ghi rất rõ tại Nghị quyết số 99 ngày 16/9/2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Chiến lược Phát triển Kiểm toán nhà nước đến năm 3030. Theo đó, Kiểm toán nhà nước sẽ thực hiện kiểm toán hoạt động, kiểm toán công nghệ thông tin, kiểm toán chuyên đề và kiểm toán môi trường.
Trong đó, chúng tôi cũng sẽ thực hiện ở ba cái loại hình kiểm toán gồm kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động.
Thì kiểm toán tài chính thì chúng tôi KTNN sẽ kiểm toán việc đầu tư, chi phí để xây dựng hạ tầng kinh tế kỹ thuật môi trường, chi phí cho hoạt động từ khâu thu gom, vận chuyển, quản lý và xử lý môi trường như là rác thải, nước thải... có đảm bảo được tính công bằng, minh bạch, đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả hay không?
Thứ hai là chúng tôi kiểm toán hoạt động để đánh giá tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả, ảnh hưởng môi trường xét trên góc nhìn toàn diện ở các khía cạnh với các lĩnh vực kinh tế khác của xã hội.
Chúng tôi cũng sẽ thực hiện kiểm toán tuân thủ, tức là đánh giá tính chấp hành, của các cá nhân, các tổ chức, các cơ sở sản xuất trong việc chấp hành các quy định về vấn đề về môi trường.
15:11-15:18
MC Bên cạnh những giải pháp tổng thể chung, từ kết quả giám sát cũng như ý kiến của nhiều đại biểu Quốc hội chỉ ra rằng, cơ sở hạ tầng cũng như khả năng huy động nguồn lực cho bảo vệ môi trường, thích ứng biển đổi khí hậu ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa hiện còn rất nhiều khó khăn hạn chế.
Vậy thưa ông Tạ Đình Thi, theo ông, Chính phủ cần có những định hướng hoặc cơ chế tài chính đặc thù nào nhằm ưu tiên đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường tại các khu vực này?
Ông Tạ Đình Thi trả lời: Chúng ta thường quan tâm nhiều hơn đến việc bảo vệ môi trường ở các khu vực đô thị, vùng duyên hải, những khu vực có điều kiện phát triển kinh tế xã hội tốt hơn, đặc biệt là những khu vực tập trung đông dân cư, khu công nghiệp...
Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng đối với các khu vực có nhiều khó khăn như khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo thì công tác bảo vệ môi trường cũng cần phải quan tâm. Đoàn giám sát không có điều kiện để đi hết các nơi, nhưng qua thu thập thông tin, đánh giá các báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương thì thấy rằng đây cũng là một điểm cần phải chú trọng hơn nữa trong thời gian tới.
Ngay tại Kỳ họp thứ 10 của Quốc hội, Quốc hội đã thông qua chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia đối với khu vực nông thôn, miền núi trên cơ sở tích hợp ba chương trình mục tiêu hiện nay chúng ta đang triển khai. Đồng thời, vốn ngân sách trong thời gian vừa qua cũng được điều chỉnh để tiếp tục sử dụng cho giai đoạn tới.
Chúng tôi cho rằng, Chương trình mục tiêu mới đã kế thừa nhiệm vụ bảo vệ môi trường từ ba Chương trình mục tiêu trước đây, để giúp cải thiện sinh kế, xây dựng những thực tiễn tốt về công tác bảo vệ môi trường, các mô hình ở địa phương, rồi các cộng đồng dân cư ở khu vực miền núi, hải đảo, những vùng khó khăn đặc biệt.
Tuy nhiên ở góc độ kinh tế tài chính, chúng ta thấy rằng đối với những khu vực này, nếu không có bàn tay của Nhà nước thì rất khó khăn. Chính vì vậy, chúng tôi thấy có ba điểm mà cần phải xem xét để hỗ trợ trong cái thời gian tới.
Thứ nhất là chúng ta cần nghiên cứu xây dựng quỹ có tính chất đặc thù để hỗ trợ cho các cái khu vực này. Ví dụ, kết hợp với những nguồn vốn của Nhà nước, nguồn vốn ODA hay là huy động từ cộng đồng hoặc là các nguồn tài trợ cho các dự án bảo vệ môi trường, nhất là các dự án về hạ tầng kỹ thuật; đồng thời, cung cấp những điều kiện tốt nhất có thể, phục vụ cho đời sống của người dân ở khu vực đó.
Thứ hai, chúng ta cần phải áp dụng các cái cơ chế tài chính linh hoạt, hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ cho các công trình dự án về bảo vệ môi trường hoặc liên quan đến bảo vệ môi trường. Ví dụ, những dự án về phát triển năng lượng cho những vùng đồng bào dân tộc hoặc công tác chi trả dịch vụ rừng... Chúng ta cần phải tính toán để hợp lý hơn so với điều kiện thực tế và đời sống của người dân ở các khu vực đó.
Một vấn đề nữa mà chúng tôi thấy khá quan trọng là chúng ta nên có chính sách để hỗ trợ các mô hình tự quản của người dân đối với công tác bảo vệ môi trường. Tức là sau khi Nhà nước hỗ trợ cho người dân để xây dựng công trình đó rồi thì cần phải phát huy những các mô hình để cho người dân tham gia và tự quản những công trình đó. Như thế mới phát huy được hiệu quả, tránh chuyện khi chúng ta xây xong rồi, Nhà nước rút đi, cái công trình đó không còn được tiếp tục sử dụng nữa, hoặc là không được sử dụng hiệu quả.
Chúng tôi cho rằng cần phải rất quan tâm đối với những khu vực này. Trên các hải đảo cũng thế. Nếu chúng ta có điều kiện đi đến các đảo hiện nay có hoạt động du lịch nhiều hoặc những đảo có dân cư sinh sống ở trên đó, thì yêu cầu bảo vệ môi trường càng ngày càng cao. Chúng tôi thấy có một số mô hình ví dụ như ở Cù Lao Chà, người dân hoặc chính quyền quy định không xả rác thải ở trên đảo hoặc quy định trách nhiệm tham gia thu gom rác thải nhựa. Chúng tôi cho rằng, những mô hình này ở các đảo rất hiệu quả và cần phải quan tâm tổng kết, đánh giá và nhân rộng, để có một mô hình cụ thể, cả về công nghệ, về tài chính, quản lý...
15:18-15:22
MC: Xin cảm ơn ông Thi và thưa ông Quang, bên cạnh cơ chế ưu tiên cho bảo vệ môi trường vùng khó khăn, hiện nay việc phát triển các làng nghề góp phần tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho người dân, nhất là người nghèo ở nông thôn…
Tuy nhiên, kết quả kiểm toán cũng cho thấy, việc thiếu nguồn vốn hỗ trợ cũng như thiếu sự đầu tư dẫn đến hạ tầng bảo vệ môi trường và công trình xử lý ô nhiễm tại các làng nghề tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Vậy qua kiểm toán, KTNN đã có kiến nghị như thế nào để tăng cường nguồn lực đầu tư cho hạ tầng môi trường làng nghề?
Ông Quang trả lời: Trong chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới có chú trọng phát triển làng nghề. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển tại làng nghề cũng phát sinh tình trạng ô nhiễm môi trường, do các làng nghề chưa có hệ thống xử lý rác thải, nước thải tập trung.
Về lâu dài, cần có quy hoạch đồng bộ, các địa phương phải có quy hoạch hoạch về cụm làng nghề, đưa các hộ sản xuất vào một khu tập trung để xử lý các vấn đề rác thải, nước thải. Tuy nhiên, với tình hình hiện nay, việc xử lý theo hướng này cũng gặp những khó khăn do thiếu nguồn lực. Do đó, giải pháp trước mắt, cần nâng cao ý thức của người dân trong vấn đề bảo vệ môi trường.
Đồng thời, cần tăng nguồn chi cho môi trường, đặc biệt chú trọng đầu tư các dự án xử lý môi trường; đồng thời thu hút đầu tư tư nhân, các tổ chức tín dụng để xử lý được vấn đề môi trường một cách đồng bộ.
Đặc biệt, cần có chế tài xử lý nghiêm đối với các tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường. Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ môi trường.
15:22-15:29
Cảm ơn ông. Từ góc độ giám sát, ông Tạ Đình Thi có chia sẻ gì thêm về vấn đề này, thưa ông?
Ông Tạ Đình Thi trả lời: Chúng ta thường là quan tâm nhiều hơn đến việc bảo vệ môi trường ở các khu vực đô thị, vùng duyên hải, rồi những các khu vực mà chúng ta có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội tốt hơn, đặc biệt là khu vực tập trung đông dân cư, khu công nghiệp…
Tuy nhiên là chúng tôi thấy rằng, đối với các khu vực mà có điều kiện khó khăn hơn như khu vực nông thôn, rồi vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo thì công tác bảo vệ môi trường cũng cần phải quan tâm hơn nữa.
Đoàn giám sát cũng không có điều kiện để đi hết các nơi, nhưng qua thu thập thông tin, rồi đánh giá các báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương thì thấy rằng đây cũng là một cái điểm rất là cần phải chú trọng hơn nữa trong cái thời gian tới.
Ngay tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội cũng đã thông qua chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia đối với khu vực nông thôn, miền núi trên cơ sở tích hợp ba Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đến năm 2035.
Chúng tôi cho rằng trong chương trình mục tiêu mới kế thừa từ ba chương trình mục tiêu trước đây, nhiệm vụ bảo vệ môi trường cũng là một trong các nhiệm vụ ở trong đó, để giúp cải thiện sinh kế rồi những thực tiễn tốt về công tác bảo vệ môi trường, các mô hình ở địa phương, rồi các cộng đồng dân cư ở khu vực miền núi, hải đảo, rồi những vùng khó khăn đặc biệt.
Tuy nhiên ở góc độ kinh tế, tài chính, chúng ta thấy rằng đối với các khu vực này, nếu không có sự tham gia của Nhà nước thì rất khó khăn. Chính vì vậy chúng tôi thấy rằng có ba cái điểm cần phải xem xét để hỗ trợ trong thời gian tới.
Thứ nhất là chúng ta nghiên cứu quỹ có tính chất đặc thù để hỗ trợ cho các khu vực này. Ví dụ kết hợp với những các nguồn vốn của nhà nước, nguồn vốn ODA hay là huy động từ cộng đồng hoặc là các nguồn tài trợ. Từ đó có các dự án bảo vệ môi trường, nhất là các dự án về hạ tầng kỹ thuật, rồi cung cấp những điều kiện tốt nhất có thể cho đời sống của người dân ở khu vực đó.
Thứ hai, chúng ta cũng cần phải áp dụng các cơ chế tài chính linh hoạt. Có thể hỗ trợ một phần hoặc hỗ trợ toàn bộ cho các công trình dự án về bảo vệ môi trường hoặc là liên quan đến bảo vệ môi trường. Tôi nói ví dụ các dự án về phát triển năng lượng chẳng hạn cho những các vùng đồng bào dân tộc, thì đây cũng là một cái có thể tính vào trong đấy là những dự án về bảo vệ môi trường. Hay chi trả dịch vụ rừng, những cái đó chúng ta cũng cần phải tính toán lại, để làm sao nó hợp lý hơn so với cả điều kiện thực tế ở các khu vực đó và đời sống của người dân.
Và một vấn đề mà chúng tôi thấy cũng khá quan trọng là chúng ta nên có chính sách để hỗ trợ cho các mô hình tự quản của người dân đối với các công tác bảo vệ môi trường. Tức là sau khi Nhà nước hỗ trợ cho người dân để xây dựng các công trình đó rồi thì cần phải phát huy những các mô hình để cho người dân tham gia và tự quản những các công trình đó, thì nó mới phát huy được hiệu quả. Tránh chuyện khi chúng ta xây xong rồi Nhà nước rút đi là công trình không còn được tiếp tục sử dụng nữa, hay hoặc sử dụng không hiệu quả.
Do đó, chúng tôi cho rằng, đối với các khu vực khó khăn này cần phải được quan tâm hơn nữa. Hay trên các hải đảo cũng thế. Nếu chúng ta có điều kiện đi đến các đảo mà hiện nay có các hoạt động du lịch nhiều, hoặc là các đảo mà có dân cư sinh sống ở trên đó, yêu cầu bảo vệ môi trường càng ngày càng cao.
Chúng tôi thấy nó có một số những mô hình, ví dụ như là ở Cù Lao Chàm, người dân hoặc chính quyền quy định là không xả rác thải ở trên đó, hoặc là cần phải có trách nhiệm tham gia vào thu gom các rác thải nhựa. Chúng ta cần phải có tổng kết đánh giá rồi nhân rộng các mô hình này.
15:29-15:36
MC: Xin cảm ơn những chia sẻ của ông Tạ Đình Thi. Như vậy có thể thấy rằng, việc đầu tư nguồn lực cho môi trường làng nghề là một trong những vấn đề cấp bách cần được quan tâm đầu tư đúng mức.
Và thưa quý vị, trong những phút cuối của chương trình Tọa đàm ngày hôm nay, chúng tôi rất mong các vị khách mời có thể chia sẻ một thông điệp hoặc một kiến nghị nhằm khẳng định tầm quan trọng của việc ưu tiên đầu tư và thu hút nguồn lực cho công tác bảo vệ môi trường.
Ông Quang trả lời: Vấn đề môi trường là sự quan tâm của từng người dân, từng tổ chức cá nhân sản xuất và của Nhà nước. Muốn xử lý được một cách triệt để vấn đề này, theo tôi là trước hết phải bắt nguồn từ ý thức của người dân. Từng cá nhân, từng cái tổ chức phải có ý thức trong vấn đề bảo vệ môi trường.
Thông thường, người dân phải thực hiện việc bảo vệ môi trường, có ý thức bảo vệ môi trường, thực hiện phân loại rác thải của từng cá nhân, từng hộ gia đình ngay tại nguồn, góp phần vào việc xử lý rác thải và bảo vệ môi trường. Từng tổ chức cá nhân có hoạt động xả thải, đặc biệt là chất thải nguy hại, nước thải, rác thải, khí thải phải có trách nhiệm xử lý triệt để ngay tại nguồn, tại cơ sở của mình, từ đó, góp phần vào việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường nói chung.
Với Nhà nước, tôi có kiến nghị, hằng năm, ngân sách Nhà nước sẽ tăng chi hơn nữa cho đầu tư môi trường. Đặc biệt là chi để xây dựng các cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho môi trường, chứ không phải là chi thường xuyên để thu gom, xử lý, vận chuyển rác thải và nước thải như thế này. Như thế mới triệt để được.
Bên cạnh đó, Nhà nước phải đầu tư hơn nữa và có chính sách về thuế, phí, đất và quy hoạch. Chúng ta có những khu đất quy hoạch lớn, tầm cỡ thì mới xây dựng được những khu xử lý nước thải, rác thải một cách quy mô và đảm bảo công nghệ, quy trình.
Với tư cách là cơ quan KTNN, cần chung tay giúp môi trường ngày càng tốt hơn và xanh - sạch - đẹp hơn. Như chúng tôi đã trao đổi từ ban đầu, Nghị quyết số 99 của Quốc hội đã quy định rõ về việc phải tăng cường các cuộc kiểm toán về môi trường.
Như vậy là KTNN sẽ thực hiện ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng, quy mô các cuộc kiểm toán môi trường, để cùng góp phần bảo vệ môi trường nói chung. Thông qua các cuộc kiểm toán, chúng tôi sẽ kiến nghị về việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công đúng quy định, minh bạch và đạt được tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả.
Ông Thi trả lời: Qua cuộc giám sát vừa rồi, chúng tôi có thông điệp chung, đó là đầu tư cho bảo vệ môi trường chính là đầu tư cho phát triển bền vững, cho tương lai của mỗi gia đình, giúp chất lượng cuộc sống ngày càng tốt hơn.
Ý thứ hai chúng tôi muốn nhắc lại: Bảo vệ môi trường là quyền, nhưng cũng là nghĩa vụ của mỗi người dân. Do đó, chúng ta cần phải bắt đầu từ ngày hôm nay, từ những việc nhỏ nhất như tiết kiệm điện, tiết kiệm nước…
Nghị quyết số 247/2025/QH15 của Quốc hội có nêu, cần ứng dụng công nghệ số trong công tác bảo vệ môi trường. Các thông số về môi trường của các cơ sở nhà máy cần phải được công khai để người dân cùng nắm. Đơn cử như ứng dụng công nghệ AI, rồi phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn, hạn chế tối đa việc xả thải ra môi trường.
Đồng thời, cần tăng cường giám sát cộng đồng việc sử dụng nguồn lực về môi trường.
Cuối cùng, chúng tôi đánh giá cao vai trò của KTNN trong công tác bảo vệ môi trường, trong việc kiến nghị, đề xuất các giải pháp bảo vệ môi trường cũng như kiến nghị xử lý các chủ thể có vi phạm trong công tác bảo vệ môi trường.
15:36-15:37
MC: Vâng, xin cảm ơn những thông điệp, kiến nghị đề xuất hết sức ý nghĩa từ các vị khách mời.
MC: Thưa quý vị và các bạn, qua chia sẻ của các vị khách mời từ đầu Tọa đàm đến giờ, chúng ta có thể khẳng định rằng, đầu tư cho môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững. Sự kết hợp đồng bộ giữa nguồn lực nhà nước, nguồn lực xã hội và sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp cùng với sự minh bạch, hiệu quả trong sử dụng các nguồn lực này sẽ là điều kiện tiên quyết để bảo đảm an ninh môi trường quốc gia.
Chương trình tọa đàm của chúng tôi xin được tạm dừng tại đây. Một lần nữa xin được trân trọng cảm ơn 2 vị khách mời đã mang đến những góc nhìn thẳng thắn và giàu thông tin. Cảm ơn quý vị khán giả đã đồng hành cùng chương trình. Xin kính chào quý vị và hẹn gặp lại trong các chương trình lần sau của Báo Kiểm toán!
15:38: Kết thúc Tọa đàm./.
