Cắt giảm khoảng 30% thủ tục hành chính cho doanh nghiệp nhà nước

(BKTO) - Sáng 14/6, Quốc hội đã thông qua dự án Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp (QL&ĐTVNNTDN) với 440/451 đại biểu Quốc hội (ĐBQH) có mặt biểu quyết tán thành. Cùng với đó, với 432/448 tổng số ĐBQH tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật.

2(1).jpg
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành phiên họp. Ảnh: ST

Cần quy định rõ điều kiện, mục đích sử dụng vốn vay

Trước khi tiến hành biểu quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi đã trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật QL&ĐTVNNTDN dựa trên ý kiến đóng góp của các ĐBQH tại phiên thảo luận ngày 13/5 và ý kiến của Chính phủ. Theo đó, nhiều vấn đề lớn đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) tiếp thu, giải trình và chỉnh lý. Trong đó, đối tượng áp dụng sẽ không mở rộng sang doanh nghiệp (DN) của tổ chức chính trị-xã hội. Cụ thể, UBTVQH giải trình vốn điều lệ của các DN thuộc cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội không chỉ bao gồm vốn Nhà nước mà còn có nhiều nguồn vốn khác. Do đó, việc đưa nhóm này vào phạm vi điều chỉnh sẽ không đảm bảo tính thống nhất với mục tiêu và đối tượng của Luật.

Tuy nhiên, để tạo cơ sở pháp lý, dự thảo Luật đã quy định giao Chính phủ quy định chi tiết hoạt động đầu tư, quản lý vốn của các tổ chức này. Ngoài ra, để đảm bảo thống nhất, UBTVQH đã chỉ đạo rà soát, bổ sung nội dung "đầu tư, hỗ trợ" của Nhà nước đối với Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam tại Điều 57 của dự thảo Luật.

Liên quan đến đề nghị quy định rõ điều kiện, thẩm quyền, trách nhiệm của từng chủ thể trong huy động, cho vay vốn để DN chủ động quyết định về nguồn vốn cho vay, lãi suất cho vay đối với công ty con, UBTVQH cho rằng, việc cho phép DN được cho công ty con (DN nắm trên 50% vốn điều lệ) vay vốn là nhằm thể chế hóa Nghị quyết số 12-NQ/TW, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của DN. Điều này cũng giúp các công ty con tiếp cận nguồn vốn hợp lý. Dự thảo Luật giao Chính phủ quy định chi tiết điều kiện bảo lãnh, cho vay nhằm quản lý chặt chẽ, kiểm soát rủi ro. Vì vậy, UBTVQH đề nghị Chính phủ khi xây dựng văn bản hướng dẫn cần quy định rõ điều kiện, mục đích sử dụng vốn vay, đánh giá hiệu quả, biện pháp bảo đảm và cơ chế giám sát.

Đối với ý kiến đề nghị không cho phép toàn bộ DN Nhà nước đầu tư bất động sản mà chỉ giới hạn ở DN lớn, UBTVQH cho rằng DN có vốn Nhà nước được thực hiện các hoạt động kinh doanh phù hợp pháp luật và định hướng của Nhà nước. Việc hạn chế này sẽ làm giảm quyền tự chủ kinh doanh, không phù hợp với chủ trương đổi mới, nâng cao hiệu quả DN Nhà nước. Do vậy, UBTVQH không quy định nội dung này trong dự thảo.

Về chuyển nhượng dự án đầu tư, vốn đầu tư, UBTVQH tiếp thu ý kiến cần quy định chặt chẽ hơn việc chuyển nhượng dự án đầu tư và đã chỉ đạo rà soát, chỉnh lý và giao Chính phủ quy định chi tiết. Điều này nhằm đảm bảo linh hoạt trong tổ chức thực hiện, xử lý tình huống phát sinh nhưng vẫn giữ yêu cầu công khai, minh bạch…

“UBTVQH đã nghiên cứu kỹ lưỡng, tiếp thu tối đa ý kiến xác đáng của các vị ĐBQH và chỉ đạo rà soát, chỉnh lý kỹ thuật đối với toàn bộ dự thảo Luật, bảo đảm rõ ràng về văn phong, tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, nhất là các quy định tại điều khoản chuyển tiếp để tránh vướng mắc trong triển khai thực hiện” - ông Phan Văn Mãi khẳng định.

Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/8/2025. Việc phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp có vốn nhà nước của năm tài chính 2025 được thực hiện theo quy định của Luật này.

So với quy định hiện hành, Luật QL&ĐTVNNTDN mới được Quốc hội thông qua đã cắt giảm khoảng 30% thủ tục hành chính cho DN nhà nước như: Phê duyệt chiến lược kinh doanh 5 năm; Phê duyệt kế hoạch sản xuất - kinh doanh hàng năm; Phê duyệt phương án huy động vốn lớn hơn 50% vốn chủ sở hữu trên báo cáo tài chính; trường hợp huy động vốn có hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu lớn hơn 3 lần; khoản vay nước ngoài; …

Giữ quy định công bố hợp quy

Báo cáo tiếp thu, giải trình dự án Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy cho biết sau khi tiếp thu, chỉnh lý, dự thảo Luật đã chỉnh sửa 31 điều, bổ sung 11 Điều mới, bãi bỏ 23 Điều. Nội dung các điều, khoản của dự thảo Luật đã thể chế hóa tương đối đầy đủ các chủ trương, chính sách mới của Đảng; đáp ứng các yêu cầu, mục tiêu, sửa đổi, bổ sung Luật.

1(1).jpg
 Quốc hội biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Ảnh: ST

Về quản lý nhà nước về hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật (Điều 7a dự thảo Luật hợp nhất), có ý kiến đề nghị tiếp tục nghiên cứu, chỉnh lý nội dung quản lý nhà nước tại khoản 2 Điều 1 của dự thảo Luật (Điều 7a được bổ sung) để bảo đảm phù hợp với thẩm quyền của Quốc hội. UBTVQH tiếp thu và chỉnh lý quy định về trách nhiệm của Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN) tại điểm b khoản 2 Điều 7a cho thống nhất, phù hợp với thẩm quyền của Quốc hội.

Trước ý kiến đề nghị nên giao bộ quản lý chuyên ngành chủ động tổ chức thực hiện trong suốt quá trình xây dựng, thẩm định, ban hành quy chuẩn, đảm bảo một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính, ông Lê Quang Huy cho biết, dự thảo Luật đã quy định giao cho Bộ, cơ quan ngang Bộ chủ trì thực hiện thống nhất trong suốt quá trình xây dựng, thẩm định, ban hành quy chuẩn và thể hiện như tại Điều 27 về trách nhiệm thẩm định quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, Điều 32 về trình tự, thủ tục xây dựng, thẩm định, ban hành quy chuẩn kỹ thuật, Điều 33 về hồ sơ và nội dung thẩm định hồ sơ dự thảo quy chuẩn kỹ thuật, Điều 35 về rà soát, sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ quy chuẩn kỹ thuật.

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy cũng cho biết, về trình tự, thủ tục xây dựng, thẩm định, ban hành quy chuẩn kỹ thuật (Điều 32 dự thảo Luật hợp nhất), có ý kiến đề nghị nên giao bộ quản lý chuyên ngành chủ động tổ chức thực hiện trong toàn bộ quá trình xây dựng, thẩm định, ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, đảm bảo một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính. Ý kiến khác đề nghị làm rõ trách nhiệm của Bộ KHCN và các cơ quan trong việc thẩm định quy chuẩn Việt Nam.

Tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật đã chỉnh lý quy định thẩm quyền thẩm định quy chuẩn kỹ thuật cho các cơ quan ban hành quy chuẩn Việt Nam theo đề nghị của Chính phủ và thể hiện như tại Điều 27 về trách nhiệm thẩm định quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, Điều 32 về trình tự, thủ tục xây dựng, thẩm định, ban hành quy chuẩn kỹ thuật, Điều 33 về nội dung thẩm định hồ sơ dự thảo quy chuẩn kỹ thuật, Điều 35 về rà soát, sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ quy chuẩn kỹ thuật nhằm đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đảm bảo một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính, tăng tính linh hoạt trong quản lý nhà nước, tiết giảm thời gian thẩm định, ban hành quy chuẩn Việt Nam.

Về công bố hợp quy (Điều 48 dự thảo Luật hợp nhất), một số ý kiến đề nghị bỏ quy định về công bố hợp quy để giảm thiểu tối đa thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, chi phí cho doanh nghiệp; ý kiến khác đề nghị không bãi bỏ mà chỉ điều chỉnh nội dung, thủ tục công bố hợp quy theo hướng rà soát, cập nhật hệ thống tiêu chuẩn nhanh, hài hòa với quy chuẩn quốc tế; điện tử hoá quy trình công bố hợp quy.

Giải trình nội dung này, UBTVQH cho rằng công bố hợp quy bao gồm 2 hoạt động: Đánh giá sự phù hợp đối tượng của công bố hợp quy với quy chuẩn kỹ thuật tương ứng; Đăng ký bản công bố hợp quy tại cơ quan chuyên ngành.

Đánh giá hợp quy là việc xác định sản phẩm, hàng hóa có phù hợp với đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý quy định trong quy chuẩn kỹ thuật được áp dụng; đây là cơ sở pháp lý kỹ thuật để cơ quan quản lý nhà nước thực hiện thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm về chất lượng sản phẩm, hàng hóa; tạo niềm tin cho người tiêu dùng; phù hợp với yêu cầu cơ bản của các thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau, các Hiệp định thương mại thế hệ mới.

Do đó, việc công bố hợp quy là biện pháp, công cụ cần thiết, quan trọng bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ người tiêu dùng, nâng cao thương hiệu của doanh nghiệp. Còn đăng ký bản công bố hợp quy là thủ tục hành chính để thông báo với cơ quan quản lý…

Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2026./.

Cùng chuyên mục
Cắt giảm khoảng 30% thủ tục hành chính cho doanh nghiệp nhà nước