Nghị quyết nêu rõ, Chương trình được thực hiện trên phạm vi cả nước và tại một số quốc gia có mối quan hệ, tương tác văn hoá lâu dài với Việt Nam, có đông đảo người Việt Nam sinh sống, lao động, học tập.
Thời gian thực hiện Chương trình từ năm 2025 đến hết năm 2035.
Tổng nguồn vốn thực hiện Chương trình giai đoạn 2025 - 2030 tối thiểu là 122.250 tỷ đồng, trong đó: Vốn ngân sách trung ương là 77.000 tỷ đồng (chiếm 63%) (bao gồm vốn đầu tư phát triển: 50.000 tỷ đồng; vốn sự nghiệp: 27.000 tỷ đồng); vốn ngân sách địa phương 30.250 tỷ đồng (chiếm 24,6%); nguồn vốn khác dự kiến khoảng 15.000 tỷ đồng (chiếm 12,4%).
Trong quá trình điều hành, Chính phủ tiếp tục cân đối ngân sách Trung ương để ưu tiên hỗ trợ thêm cho Chương trình phù hợp với điều kiện thực tế và có giải pháp huy động phù hợp mọi nguồn vốn hợp pháp để thực hiện.
Đến năm 2030, phấn đấu ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP
Nghị quyết xác định, đến năm 2030, Chương trình đạt 9 mục tiêu cụ thể:
Thứ nhất, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị con người, hệ giá trị gia đình Việt Nam được triển khai thực hiện trên cả nước thông qua các bộ quy tắc ứng xử.
Thứ hai, phấn đấu 100% đơn vị hành chính cấp tỉnh có đủ 3 loại hình thiết chế văn hóa cấp tỉnh (Trung tâm Văn hóa hoặc Trung tâm Văn hóa - Thể thao, Bảo tàng, Thư viện); 80% các đơn vị hành chính cấp huyện có Trung tâm Văn hóa - Thể thao đạt chuẩn; đảm bảo vận hành hiệu quả các thiết chế văn hóa cơ sở cấp xã, thôn.
Thứ ba, phấn đấu hoàn thành việc tu bổ, tôn tạo 95% di tích quốc gia đặc biệt (khoảng 120 di tích) và 70% di tích quốc gia (khoảng 2.500 di tích).
Thứ tư, phấn đấu các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP của cả nước.
Thứ năm, phấn đấu 100% đơn vị hoạt động văn hóa, nghệ thuật được tin học hóa, chuyển đổi số, ứng dụng các thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Thứ sáu, phấn đấu 100% học sinh, học viên, sinh viên trong hệ thống giáo dục quốc dân được tiếp cận, tham gia các hoạt động giáo dục nghệ thuật, giáo dục di sản văn hóa.
Thứ bảy, 90% văn nghệ sỹ tài năng, công chức, viên chức thuộc lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ, chuyên môn.
Thứ tám, các tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật, điện ảnh, lý luận phê bình văn học, nghệ thuật xuất sắc, chất lượng cao được hỗ trợ sáng tác, công bố, phổ biến.
Thứ chín, hằng năm, có ít nhất 5 sự kiện quốc tế lớn về văn hóa, nghệ thuật tại nước ngoài có sự tham gia chính thức của Việt Nam.
Nghị quyết cũng đặt ra 9 mục tiêu cụ thể đến năm 2035: Phấn đấu 100% các địa phương đưa nội dung giáo dục đạo đức, lối sống, hệ giá trị gia đình thời kỳ mới vào hương ước, quy ước của dòng họ, cộng đồng, làng xã và hỗ trợ thực hiện có hiệu quả; 100% thư viện trong mạng lưới thư viện đáp ứng điều kiện thành lập và bảo đảm điều kiện hoạt động theo quy định của Luật Thư viện; Phấn đấu hoàn thành việc tu bổ, tôn tạo 100% di tích quốc gia đặc biệt và ít nhất 80% di tích quốc gia.
Đồng thời, phấn đấu đến năm 2035 các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 8% GDP của cả nước; Hoàn thiện Thư viện số quốc gia, xây dựng thư viện thông minh, mở rộng kết nối, tích hợp dữ liệu với các thư viện trong mạng lưới thư viện Việt Nam và quốc tế; 85% cơ sở giáo dục trên toàn quốc có đủ hệ thống phòng học cho các môn học Âm nhạc, Mỹ thuật, Nghệ thuật; 100% văn nghệ sỹ tài năng, công chức, viên chức thuộc lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật được tiếp cận, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ, chuyên môn; Hằng năm, có từ 10 - 15 tác phẩm, công trình văn hóa, nghệ thuật tầm quốc gia về lịch sử dân tộc, lịch sử đấu tranh cách mạng và công cuộc đổi mới của đất nước; Hằng năm, có ít nhất 6 sự kiện quốc tế lớn về văn hóa, nghệ thuật tại nước ngoài có sự tham gia chính thức của Việt Nam.
Bố trí 400 tỷ đồng trong năm 2025
Trình bày Báo cáo giải trình ý kiến đại biểu Quốc hội về Dự thảo Nghị quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục Nguyễn Đắc Vinh cho biết, liên quan đến nguồn lực thực hiện Chương trình, nhiều đại biểu băn khoăn cho rằng, tổng nguồn vốn khác đề ra tại Nghị quyết chiếm tỷ lệ 12,4% còn cao, thiếu tính khả thi, nhất là đối với các địa phương còn khó khăn.
Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, nguồn vốn khác huy động thực hiện Chương trình bao gồm nguồn vốn từ các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện dự án, vốn huy động thông qua chính sách thu hút đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư, nguồn đóng góp tự nguyện của người dân (tiền, hiện vật, ngày công lao động) và các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật.
Tỷ lệ 12,4% là tỷ lệ trung bình trong cả nước; đối với những địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, đặc biệt là địa phương phát triển công nghiệp văn hóa, tỷ lệ sẽ đạt cao hơn; đối với địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, có thể huy động sự đóng góp của người dân bằng ngày công, hiện vật…Khi Chương trình thực hiện hiệu quả, hoạt động của Chương trình sẽ mang lại lợi ích cho chính cộng đồng, thu hút sự đóng góp của cộng đồng dân cư, doanh nghiệp - ông Nguyễn Đắc Vinh nêu rõ.
Có ý kiến đề nghị rà soát, đánh giá khả năng bố trí ngân sách và giải ngân vốn năm 2025. Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, theo Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư, Chương trình dự kiến bố trí vốn năm 2025 là 400 tỷ đồng, trong đó ngân sách trung ương là 150 tỷ đồng, ngân sách địa phương là 250 tỷ đồng/63 tỉnh, thành phố. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, số vốn này hoàn toàn nằm trong khả năng cân đối của ngân sách.