
Thưa ông, xin ông có thể cho biết những kết quả đạt được trong công tác quản lý nhà nước, cũng như tham mưu chính sách về BVMT thời gian qua?
Kể từ khi Luật BVMT năm 2020 có hiệu lực thi hành, việc quản lý, tham mưu, ban hành và thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT đã đạt được nhiều kết quả nổi bật, quan trọng, tích cực, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, an sinh xã hội và hội nhập quốc tế. Trong đó, có thể kể đến:
Việc ban hành chính sách, pháp luật đã thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương của Đảng về quản lý tài nguyên, BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn thông qua việc ban hành khối lượng lớn các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật; việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện nghiêm túc, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và cơ bản bảo đảm tính thống nhất, khả thi của hệ thống pháp luật.
Các chiến lược, quy hoạch quốc gia và lần đầu tiên xây dựng Quy hoạch BVMT quốc gia. Hệ thống tiêu chuẩn (TCVN), quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) về môi trường tiếp tục được rà soát, cập nhật, tiệm cận với trình độ quốc tế. Từ năm 2022 đến nay, đã ban hành thêm 41 QCVN, 61 TCVN và 04 định mức kinh tế - kỹ thuật trong lĩnh vực BVMT.
Công tác BVMT đã có nhiều chuyển biến, đạt và vượt nhiều mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam tăng, đứng nhóm đầu trong khối ASEAN.

Các nguồn thải lớn đã được kiểm soát chủ động và chặt chẽ, không để xảy ra sự cố môi trường lớn; tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải tăng dần qua các năm; công tác quản lý chất thải có nhiều chuyển biến, việc tái chế, tái sử dụng chất thải được tăng cường, giảm hình thức chôn lấp. Nhiều dự án lớn đã được kiểm soát chặt chẽ về BVMT để đi vào vận hành chính thức.
Đã xuất hiện nhiều mô hình đô thị, nông thôn, khu công nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất sinh thái, thân thiện với môi trường. Tỷ lệ khu công nghiệp (KCN), cụm công ngiệp (CCN) đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung tăng so với giai đoạn trước.
Có thể nói, chất lượng môi trường nhìn chung được cải thiện, đặc biệt là chất lượng môi trường đất, môi trường nước mặt một số lưu vực sông chính, nước biển ven bờ, nước dưới đất. Tại nhiều nơi, mặc dù ô nhiễm môi trường xẫn xảy ra nhưng mức độ không tăng hoặc tăng không đáng kể; các dự báo tác động xấu tới môi trường từ các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội đã được áp dụng, cùng với các biện pháp ngăn ngừa có hiệu quả.
Nhiều địa phương đã đầu tư rất lớn cho hệ thống sông, hồ và hệ thống thoát nước, cũng như thu gom rác thải, song hiệu quả chưa thực sự cao khi tình trạng ô nhiễm vẫn còn phức tạp và chưa có giải pháp hiệu quả. Xin ông cho biết rõ thêm về vấn đề này?
Trong thời gian qua, nhiều địa phương đã quan tâm, đầu tư đáng kể cho hệ thống sông, hồ, kênh mương, cống rãnh và hạ tầng thu gom, xử lý nước thải, chất thải rắn. Tuy nhiên, hiệu quả vẫn chưa đạt kỳ vọng.
Nguyên nhân khách quan là do hệ thống sông, hồ nội đô hầu hết đã được hình thành từ lâu, chịu tác động lớn của quá trình đô thị hóa nhanh, trong khi quy hoạch thoát nước và BVMT chưa đồng bộ. Tình trạng biến đổi khí hậu gây ra mưa cực đoan, nước biển dâng và úng ngập cục bộ tại nhiều khu vực thấp trũng, vượt quá khả năng thiết kế của hệ thống hiện có.

Bên cạnh đó còn phải kể đến những nguyên nhân chủ quan đã được Kiểm toán nhà nước nhiều lần chỉ ra như: Một số địa phương chưa có quy hoạch tổng thể thoát nước và xử lý nước thải đô thị phù hợp; đầu tư còn dàn trải, thiếu đồng bộ giữa các công trình thu gom, trạm xử lý. Công tác quản lý, vận hành sau đầu tư chưa được chú trọng; nhiều công trình xuống cấp nhanh do thiếu kinh phí duy tu, bảo trì.
Đặc biệt, ý thức xả thải và quản lý chất thải rắn của người dân và doanh nghiệp còn hạn chế; tình trạng đổ rác, nước thải trực tiếp ra sông hồ vẫn phổ biến. Mặt khác, nguồn lực tài chính cho xử lý ô nhiễm môi trường đô thị còn hạn chế; mô hình xã hội hóa chưa được nhân rộng…
Cần đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, kiểm toán và xử lý nghiêm các hành vi xả thải trái phép ra môi trường; ứng dụng công nghệ xử lý tiên tiến, cải tạo hồ, kênh, mương kết hợp với cảnh quan sinh thái. Đặc biệt, cần chú trọng công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng, hình thành thói quen phân loại rác và bảo vệ nguồn nước.
Thời gian qua, Bộ NNMT đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp và đã có những kết quả tương đối khả quan. Bộ NNMT cùng TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và các địa phương trên lưu vực sông Nhuệ - Đáy và Đồng Nai đã tổ chức theo dõi diễn biến chất lượng nước, quản lý các nguồn thải trên các sông.
Bộ đã bước đầu xây dựng và đang rà soát, cập nhật cơ sở dữ liệu môi trường Quốc gia, trong đó có quản lý các thông tin diễn biến chất lượng nước các lưu vực sông trên địa bàn TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh cũng như các nguồn thải phát sinh nước thải ra hệ thống Bắc Hưng Hải và các lưu vực sông Nhuệ - Đáy, Đồng Nai...

Bên cạnh đó, Bộ đã tổng hợp danh mục các nguồn thải thuộc các loại hình sản xuất, kinh doanh có lưu lượng xả thải từ 200m3/ngày đêm trở lên (trong khu dân cư, KCN, CCN) vào các lưu vực sông để tăng cường kiểm soát chặt chẽ, đặc biệt tại các đoạn sông có chất lượng nước mặt ô nhiễm trên lưu vực sông thuộc nội đô của TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội; tổ chức xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu dùng chung về nguồn thải.
Cùng với đó, Bộ NNMT triển khai thực hiện nhiệm vụ đánh giá sức chịu tải môi trường nước mặt lưu vực sông phục vụ xây dựng Kế hoạch quản lý chất lượng nước mặt, dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ ban hành cuối năm 2025.
Nguồn kinh phí cho môi trường đóng vai trò quan trọng giúp nâng cao hiệu quả BVMT. Xin ông chia sẻ thêm về khó khăn, vướng mắc trong quá trình quản lý, sử dụng kinh phí cho môi trường và những đề xuất, kiến nghị để giải quyết các vướng mắc này?
Qua thực tiễn triễn khai, cũng như tổng hợp báo cáo tình hình thực hiện tại các địa phương cho thấy còn một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình quản lý, sử dụng kinh phí cho công tác BVMT.
Có thể kể đến như tiêu chí và cơ chế lập dự toán, phân bổ ngân sách nói chung và ngân sách sự nghiệp môi trường (SNMT) nói riêng còn nhiều bất cập, nhiều tầng nấc và kéo dài, chưa phù hợp tiến độ quy định, có độ trễ ảnh hưởng tới thực hiện một số nhiệm vụ cấp bách.
Năng lực lập dự án/nhiệm vụ từ SNMT cấp Trung ương và Địa phương có một số nơi chưa đáp ứng yêu cầu, chất lượng, còn dàn trải về mục tiêu, quy mô tính chất. Không đủ cơ sở dữ liệu, tiêu chí để đánh giá hiệu quả, nhiều tiêu chí còn chung chung, trùng chéo tính chất nguồn kinh phí giữa sự nghiệp BVMT, sự nghiệp kinh tế, sự nghiệp khác hoặc nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Chưa có tiêu chí cụ thể, chưa có các công cụ để đánh giá, phân tích hiệu quả sử dụng ngân sách gây khó khăn cho việc đề xuất các nội dung về quản lý ngân sách SNMT.

Để giải quyết những thách thức này, chúng tôi cho rằng cần chú trọng đầu tư phát triển các công trình BVMT. Tập trung ưu tiên nguồn lực từ ngân sách và nguồn lực xã hội hóa cho BVMT, trong đó ưu tiên dành nguồn lực đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng môi trường thiết yếu như hệ thống thu gom, xử lý nước thải đô thị, xử lý rác thải; cải thiện và phục hồi môi trường các lưu vực sông; hỗ trợ hoạt động chuyển đổi xanh, giảm phát thải khí nhà kính; phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, công nghệ mới không phát thải, công nghệ lưu trữ năng lượng, thu giữ và sử dụng các-bon thông qua các cơ chế tài chính linh hoạt (như đầu tư công hoặc hợp tác công - tư...).
Có sự xung đột lợi ích giữa giá trị phát triển kinh tế - xã hội, BVMT trong các dự án/nhiệm vụ/đề án so với tiêu chí chi tiêu ngân sách là tiết kiệm/chống lãng phí mà chưa có cơ chế để so sánh và tìm ra tiêu chí để hài hòa của 02 vấn đề này. Các dự án môi trường, đầu tư cơ sở hạ tầng thường có quy mô vốn thực hiện lớn và chi phí vận hành thường xuyên, quy mô ngân sách lại phụ thuộc nguồn thu và thường xếp sau danh sách các dự án ưu tiên cho phát triển kinh tế của Trung ương và địa phương.
Bố trí đúng, đủ, quản lý có hiệu quả và tăng dần chi ngân sách cho BVMT tương ứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế; phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phương quyết định phân bổ nguồn lực cho BVMT.
Đồng thời, cần tăng cường phối hợp giữa Bộ NNMT, Bộ Xây dựng và UBND các tỉnh, thành phố trong rà soát quy hoạch, xác định khu vực ô nhiễm trọng điểm để ưu tiên đầu tư.
Hoàn thiện và triển khai hiệu quả các công cụ kinh tế trong BVMT; huy động nguồn lực tư nhân, các nguồn lực khác thông qua các công cụ tài chính xanh như trái phiếu xanh, tín dụng xanh... để triển khai các dự án đầu tư xanh, dự án BVMT; chú trọng đổi mới hình thức, phương thức ưu đãi, hỗ trợ cho các dự án này và áp dụng tiêu chuẩn môi trường, xã hội, quản trị (ESG) phù hợp với nhu cầu thực tế của từng địa phương. Đa dạng hóa nguồn cung tín chỉ các-bon, trong đó ưu tiên cho phát triển thị trường trong nước.

Khuyến khích phát triển các dự án tạo tín chỉ các-bon trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, nông nghiệp các-bon thấp, xử lý chất thải, công nghiệp xanh…, thúc đẩy đầu tư theo cơ chế đối tác công - tư, phát triển các mô hình hợp tác đầu tư cho các hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu.
Các cơ quan, địa phương cần tích cực, chủ động tham gia đàm phán, ký kết và thực hiện các thỏa thuận quốc tế; tranh thủ sự hỗ trợ về tri thức, tài chính, kỹ thuật của quốc tế phù hợp với lợi ích quốc gia và tăng cường hội nhập quốc tế về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo trong BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Đồng thời, khuyến khích các phong trào tự nguyện, mô hình điển hình tiên tiến về BVMT; thực hiện cơ chế huy động sự tham gia của cộng đồng dân cư, người dân, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các bên liên quan thực hiện công tác BVMT, đảm bảo đơn giản, hiệu quả, thiết thực và có tính lan tỏa cao; hình thành thói quen, văn hóa môi trường trong xã hội.
Trân trọng cảm ơn ông!
Các mục tiêu, chỉ tiêu về môi trường đã cơ bản đạt được theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, 03/05 chỉ tiêu đã vượt kế hoạch đặt ra cho năm 2025. Ngân sách nhà nước chi cho sự nghiệp môi trường luôn được đảm bảo không thấp hơn 1% tổng chi ngân sách nhà nước, với xu hướng tăng qua các năm (năm 2024 đạt 1,12%). Nguồn lực xã hội hóa và đầu tư từ doanh nghiệp cho BVMT cũng có những chuyển biến tích cực.
